Tại sao chính sách sinh ba con của Trung Quốc không thể nâng cao triển vọng kinh tế dài hạn?

09:09 03/06/2021

Trung Quốc đã và đang chứng kiến tình trạng sụt giảm dân số nhanh chóng trong vòng một thập kỷ. Trong giai đoạn năm 2010 và 2020, trung bình tăng trưởng dân số Trung Quốc chỉ đạt 0.53% hàng năm, đánh dấu mức tăng chậm nhất kể từ cuộc điều tra dân số năm 1953.

Một trong những nguyên nhân lý giải hiện tượng này là chính sách chỉ cho phép mỗi gia đình sinh một con duy nhất nhằm ngăn chặn tình trạng bùng nổ dân số quá nhanh trong giai đoạn trước. Tuy nhiên, trong vòng 10 năm trở lại đây, báo cáo điều tra dân số gần nhất cho thấy sụt giảm tỷ lệ sinh trầm trọng có thể gây ra các vấn đề về kinh tế và xã hội. Chính vì vậy, các nhà làm luật đã thay đổi chính sách từ sinh một con sang sinh hai con vào năm 2015. Trong tuần này, theo quyết định của Bộ Chính trị, Trung Quốc thông báo chính sách sinh ba con sẽ được thực hiện trong khuôn khổ giai đoạn phát triển 5 năm lần thứ 14. 

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa. (Ảnh: internet) 

Câu hỏi đặt ra là liệu chính sách ba con có thực sự hiệu quả. Sau khi chính sách hai con được thi hành, số ca sinh đã tăng nhẹ trong năm 2016 và 2017 nhưng đây chỉ là hiện tượng tạm thời. Trong năm 2020, tại Trung Quốc chỉ có 12 triệu em bé ra đời, tỉ lệ thấp nhất trong vòng 6 thập kỷ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, việc nới lỏng các biện pháp kiểm soát chỉ có tác động rất nhỏ, quan trong hơn là làm thế nào để thay đổi tỷ lệ sinh dài hạn bằng cách xem xét gỡ bỏ hoàn toàn các chính sách. Tổng tỷ suất sinh của Trung Quốc đã giảm xuống mức 1,3 -1,7% trong thập kỷ qua, thấp hơn nhiều so với mức cần thiết để duy trì mức dân số hiện tại. Ngoài ra, giá bất động sản tăng cao, khối lượng công việc lớn và cạnh tranh nguồn lực giáo dục đã khiến thế hệ trẻ không muốn có con. Trong khi chính phủ đã nỗ lực kiềm chế giá nhà đất và tối ưu hóa các nguồn lực nhưng có rất ít dấu hiệu cho thấy những người trẻ tuổi thay đổi quan điểm sinh nở.

Trong bối cảnh tổng dân số tăng trưởng nhưng lực lượng lao động đã giảm đáng kể kể từ khi đạt đỉnh vào năm 2010. Dự báo của Liên hợp quốc vào năm 2019 cho thấy, ngay cả khi tỷ lệ sinh tăng lên theo thời gian, dân số trong độ tuổi lao động tiếp tục giảm trước khi ổn định vào khoảng năm 2055. Xu hướng nhân khẩu học cũng thể hiện ở số lượng lao động nhập cư. Theo một báo cáo riêng do Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc công bố, tốc độ tăng trưởng về số lượng lao động nhập cư đã chậm lại trong thập kỷ qua. Năm 2020, lần đầu tiên số lượng lao động nhập cư thấp hơn năm trước. Nguyên nhân được đưa ra một phần là do đại dịch và hậu quả kinh tế tất yếu nhưng xu hướng cơ bản có thể sẽ giảm trong những năm tới. 

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa. (Ảnh: internet) 

Tiềm năng lao động của dân số nông thôn đang dần bị cạn kiệt, lao động nhập cư già đi nhanh chóng với hơn một nửa tổng lao động nhập cư chiếm đến 40% khi nhiều người muốn làm việc tại tỉnh nhà hơn di cư đến các khu vực mới. Phân tích trường hợp tương tự của Nhật Bản sẽ chỉ ra những xu hướng nhân khẩu học này có ý nghĩa như thế nào đối với nền kinh tế Trung Quốc. Tốc độ tăng trưởng tiềm năng của Nhật Bản đã chậm lại đáng kể kể từ khi lực lượng lao động sản xuất bắt đầu giảm vào những năm 1990 và tỷ lệ phụ thuộc gia tăng đã gây thêm áp lực lên hệ thống lương hưu và chăm sóc sức khỏe của nước này. Với việc dân số trong độ tuổi lao động thu hẹp, triển vọng kinh tế của Trung Quốc sẽ trở nên ảm đạm hơn bởi tăng trưởng sản lượng tổng thể bắt nguồn từ tốc độ phát triển của dân số và năng suất lao động. Các dự báo cho thấy dân số lao động sẽ giảm trong những năm tới và Trung Quốc có lẽ sẽ không thể bù đắp được chỗ trống với sự gia tăng đáng kể của tỷ lệ người cao tuổi. Tăng trưởng phải dựa trên năng suất cao hơn trên mỗi lao động nhưng triển vọng không mấy khả thi trong bối cảnh tăng trưởng năng suất giảm dần.  

TL