Việt Nam hướng đến kịch bản phát triển bền vững kinh tế biển

17:19 12/05/2022

Một số kịch bản đến năm 2030 đã được phát triển cho từng ngành, lĩnh vực bao gồm kịch bản cơ sở và kịch bản “phát triển bền vững” hay còn gọi là “xanh lam”, phù hợp với khái niệm kinh tế xanh và kinh tế biển xanh.

Sáng nay 12/5, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) công bố báo cáo “Kinh tế biển xanh - Hướng đến kịch bản phát triển bền vững kinh tế biển” trong khuôn khổ "Hội nghị quốc tế về Kinh tế đại dương bền vững và Thích ứng với biến đổi khí hậu".

Kinh tế biển xanh đang là xu hướng phát triển của thế giới, đặc biệt là các quốc gia có biển. Đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam về phát triển kinh tế biển sử dụng khái niệm kinh tế biển xanh. Báo cáo đưa ra “các kịch bản xanh lam trong phát triển kinh tế biển cho Việt Nam”, gồm 6 lĩnh vực kinh tế biển chủ chốt của Việt Nam là ngư nghiệp, năng lượng tái tạo, dầu khí, du lịch, giao thông vận tải, môi trường và hệ sinh thái.

Việt Nam hướng đến kịch bản phát triển bền vững kinh tế biển
Việt Nam hướng đến kịch bản phát triển bền vững kinh tế biển.

Một số kịch bản đến năm 2030 đã được phát triển cho từng ngành, lĩnh vực bao gồm kịch bản cơ sở và kịch bản “phát triển bền vững” hay còn gọi là “xanh lam”, phù hợp với khái niệm kinh tế xanh và kinh tế biển xanh.

Kịch bản xanh lam mang lại lợi ích vượt trội về sự đóng góp GDP (tổng sản phẩm quốc nội), GNI (thu nhập quốc dân) của các ngành kinh tế biển và thu nhập bình quân đầu người cho các lao động nghề biển. Nghiên cứu cho thấy với kịch bản xanh lam được áp dụng, GDP sẽ hơn kịch bản cơ sở lần lượt là 296 ngàn tỷ đồng (12,9 tỷ USD) vào năm 2025 và 538 ngàn tỷ đồng (23,5 tỷ USD) vào năm 2030.

Theo đó, nhiều khuyến nghị chính sách đã được đưa ra, nhằm đạt được quỹ đạo kịch bản xanh, bao gồm: Đối với thủy sản và nuôi trồng thủy sản: giảm sản lượng đánh bắt thủy sản xuống mức sản lượng bền vững tối đa (khoảng 2,7 triệu tấn mỗi năm) bằng cách giảm sản lượng đánh bắt 2% mỗi năm, bao gồm giảm 5% mã lực tàu ven bờ mỗi năm; duy trì diện tích nuôi trồng thủy sản và cải tiến quản lý để dẫn đến năng suất an toàn tăng 3,5% mỗi năm.

Đối với dầu khí: Thúc đẩy tiết kiệm năng lượng trong các hoạt động sản xuất dầu khí; tăng cường bảo vệ môi trường và tăng cường tham gia vào lĩnh vực sản xuất năng lượng tái tạo trên biển mới nổi.

Về năng lượng tái tạo biển: Mở rộng nhanh chóng các nguồn năng lượng tái tạo biển đạt 10.000 MW lắp đặt vào năm 2030, bao gồm khoảng 4.500 MW gió gần bờ (chủ yếu là đồng bằng sông Cửu Long) và 5.500 MW gió ngoài khơi (chủ yếu là khu vực Nam Trung Bộ).

Du lịch: Thúc đẩy tăng trưởng khách quốc tế 8 - 10%/năm và khách nội địa 5 - 6%/năm đến năm 2030; đạt 1,6 triệu giường khách du lịch với tỷ lệ lấp đầy 65% vào năm 2030; đưa các tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm cả nước biển dâng, vào quy hoạch du lịch.

Cuối cùng, đối với vận tải hàng hải: Tăng vận tải biển lên 20,6% hoặc thị phần vào năm 2030; nâng khối lượng hàng hóa vận chuyển lên 787 triệu tấn; và mở rộng vận tải nội địa lên 289 triệu tấn.

PV