Thu hút FDI và một số vấn đề đặt ra hiện nay

10:12 02/02/2024

Việt Nam có nhu cầu cao, nhiều triển vọng và lợi thế trong cuộc đua hút dòng vốn FDI do những yếu tố nền tảng tốt. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đã và đang xuất hiện một số vấn đề nóng cần được nhận diện và có giải pháp thích ứng.

 

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa.
                                                     

Cùng với quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam ngày càng được quan tâm, mở rộng về quy mô, phạm vi, số lượng, cơ cấu và chất lượng; có tác động quan trọng và khá toàn diện đến quá trình chuyển dịch, nâng cao năng lực và hiệu quả cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội đất nước.

Việt Nam có nhu cầu cao, nhiều triển vọng và lợi thế trong cuộc đua hút dòng vốn FDI do những yếu tố nền tảng tốt. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đã và đang xuất hiện một số vấn đề nóng cần được nhận diện và có giải pháp thích ứng, nhằm tiếp tục duy trì và cải thiện dòng vốn FDI trong bối cảnh mới trong và ngoài nước...

Một số kết quả nổi bật trong thu hút FDI vào Việt Nam

Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tính đến ngày 20/12/2023, Việt Nam thu hút được tổng FDI hơn 36,6 tỷ USD, tăng 32,1% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn đăng ký cấp mới đạt hơn 20,1 tỷ USD, tăng 62,2%; số dự án đăng ký mới đạt 3.188 dự án, tăng 56,6%. Vốn góp  đạt hơn 8,5 tỷ USD, tăng 65,7% và vốn đăng ký tăng thêm đạt hơn 7,8 tỷ USD, giảm 22,1% so cùng kỳ; Đặc biệt, vốn FDI thực hiện đạt hơn 23,1 tỷ USD, tăng 3,5% và là mức cao nhất từ trước đến nay. 

Ngoài vốn đăng ký mới, năm 2023 cũng ghi nhận 1.262 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (tăng 14% so với cùng kỳ), với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt hơn 7,88 tỷ USD (giảm 22,1% so với cùng kỳ).

Trong khi đó, vốn đầu tư thông qua góp vốn mua cổ phần đạt hơn 8,5 tỷ USD, tăng 65,7% so với cùng kỳ. Nhờ quy mô vốn góp tăng nên dù lượt giao dịch góp vốn, mua cổ phần trong năm 2023 chỉ đạt 3.451 lượt, giảm 3,2% so với cùng kỳ, nhưng vốn góp lại tăng cao.

Như vậy, cả dự án mới, vốn đăng ký mới, vốn góp và vốn FDI thực hiện đều tăng mạnh. Đây là một điểm rất đáng ghi nhận.

Dòng vốn đầu tư nước ngoài đã, đang và sẽ tiếp tục góp phần quan trọng đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất mới và trung tâm sản xuất công nghệ của thế giới. Trong giai đoạn 2016-2020, nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện của Việt Nam, với nguồn vốn FDI, đã tăng trưởng bình quân 23,8%, đưa Việt Nam từ vị trí 47 năm 2001 lên vị trí 12 thế giới và thứ 3 khu vực ASEAN về xuất khẩu điện tử. Nhiều tập đoàn đa quốc gia đã dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu từ một số nước sang Việt Nam và đầu tư nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, thành lập hàng chục trung tâm R&D, trung tâm đổi mới sáng tạo, vườn ươm công nghệ, liên kết thành công với doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa... Điển hình là các khoản đầu tư quy mô lớn của Samsung, Pegatron, Foxconn, Luxshare, Goertek, Google, LG, Quanta Computer (Đài Loan - Trung Quốc), Lego (Đan Mạch), Intel và một số nhà đầu tư nước ngoài khác; Apple bắt đầu sản xuất iPad, Macbook; LG thông báo đầu tư thêm 4 tỉ USD để sản xuất camera cho điện thoại di động….Đây cũng là cơ sở để kỳ vọng trong thời gian tới Việt Nam thêm nhiều cơ hội phát triển cho đất nước, cho doanh nghiệp, cho hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo từ những nền tảng hiện có về giáo dục, khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng cho công nghệ, công nghiệp chế biến chế tạo...

Tuy nhiên, tác động của FDI trong việc cải tiến khoa học - công nghệ vẫn còn rất hạn chế. Theo VCCI, đến đầu năm 2020, chỉ có khoảng 6% doanh nghiệp FDI sử dụng các công nghệ tiên tiến của châu Âu và Hoa Kỳ; 30% - 45% doanh nghiệp FDI đang sử dụng các công nghệ của Trung Quốc. Tuổi đời của công nghệ được sử dụng chủ yếu là công nghệ ra đời từ năm 2000 đến năm 2005 và phần lớn những công nghệ này là công nghệ trung bình hoặc trung bình tiên tiến của khu vực; các doanh nghiệp FDI chưa tập trung nhiều nguồn lực cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D).

Đặc biệt, hiện tượng chuyển giá, trốn thuế và nhiều sự cố môi trường xảy ra do hoạt động xả thải của các doanh nghiệp FDI trong những năm qua là những bằng chứng cho thấy tác động tiêu cực của việc thu hút FDI ở Việt Nam.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa.

Một số vấn đề đặt ra và giải pháp cần có

Việt Nam có nhu cầu cao và cũng có nhiều triển vọng và lợi thế trong cuộc đua hút đa dạng và đa kênh trên toàn cầu dòng vốn FDI do những yếu tố nền tảng, như: Có sự ổn định chính trị, trí địa lý và cơ sở hạ tầng, chính sách ưu đãi hấp dẫn và có mức tăng trưởng cao; có quy mô dân số tăng nhanh và đội ngũ nhân lực đang được cải thiện về chất lượng. Ngành sản xuất ở Việt Nam tiếp tục được mở rộng, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao. Ngoài ra, môi trường kinh tế đối ngoại của Việt Nam ngày càng được cải thiện, với hơn 17 Hiệp định Thương mại tự do quốc tế đã được ký kết và đang được đàm phán, bao gồm cả với Liên minh Châu Âu (EU) và Vương quốc Anh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam đang bùng nổ, đứng đầu khu vực Đông Nam Á, với 1.400 doanh nghiệp công nghệ số có doanh thu từ nước ngoài.

Theo “Báo cáo đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 2022” do Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE) công bố tháng 2/2023, có tới 68,5% doanh nghiệp  FDI cho rằng Việt Nam có những yếu tố thuận lợi so với các quốc gia khác khiến họ cân nhắc đầu tư tại đây. Tuy nhiên, những thủ tục hành chính, chất lượng kết cấu hạ tầng, dịch vụ công vẫn là những vấn đề nổi lên, cần được khắc phục giúp Việt Nam thực sự hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài.

Ngày 12-1-2023, EuroCham công bố Chỉ số Môi trường Kinh doanh (BCI). Theo đó, khoảng 35%  trong số 1.300 thành viên của EuroCham số được hỏi cho rằng Việt Nam thuộc top 5 điểm đến đầu tư toàn cầu hàng đầu, với 12% cho rằng Việt Nam là điểm đầu tư quốc tế hàng đầu của công ty họ. Dù vậy, còn một số rào cản để doanh nghiệp của họ đầu tư vào Việt Nam, trong đó, 3 rào cản về pháp lý lớn nhất đối với các công ty nước ngoài hoạt động tại Việt Nam được xác định là thiếu rõ ràng về các quy tắc và quy định (51%), khó khăn hành chính (41%), khó khăn về thị thực và giấy phép lao động (30%). 

Theo kết quả khảo sát mới nhất năm 2023 của Phòng Công nghiệp và Thương mại Đức tại Việt Nam (AHK Việt Nam), 88% số người tham gia khảo sát tự tin với tình hình kinh doanh của họ tại Việt Nam và 91% các nhà đầu tư Đức mong muốn tiếp tục đầu tư hoặc mở rộng hoạt động kinh doanh tại Việt Nam và khoảng 40 % ố này có kế hoạch bổ sung lực lượng lao động trong 12 tháng tới.  Tuy thế, trong ngắn hạn, các doanh nghiệp Đức vẫn còn thận trọng do quan ngại về chính sách phát triển kinh tế, thiếu hụt lao động có tay nghề và nguy cơ gián đoạn chuỗi cung ứng, lạm phát, xu hướng tách rời sự phụ thuộc của các nền kinh tế lớn và sự ảnh hưởng chính trị ngày càng gia tăng lên đến chuỗi cung ứng, nhu cầu toàn cầu thấp...Bởi vậy, Việt Nam cần tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư; nâng cao chất lượng lực lượng lao động lành nghề và năng lực cạnh tranh của các nhà cung cấp địa phương trong chuỗi cung ứng toàn cầu và của Đức; đơn giản hóa, số hóa và hợp lý hóa các thủ tục hành chính để tận dụng Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA)...

Bên cạnh đó, sự cạnh tranh thu hút FDI ngày càng gay gắt trong khu vực đang làm xuất hiện xu hướng dịch chuyển một phần nào đó dòng chảy FDI (trước hết là trong lĩnh vực dệt may và da giầy) từ Việt Nam sang các nước khác, vì nhiều lý do, trong đó có tình trạng mất sức cạnh tranh về lương công nhân (hiện mức lương bình quân của công nhân may mặc ở Bangladesh chỉ là 120 đô la Mỹ/tháng, thấp hơn hẳn ở Việt Nam) và sự thua kém về đáp ứng yêu cầu xuất xanh và phát thải ròng các bon bằng 0 trong chuỗi cung ứng...

 Hơn nữa, viễn cảnh FDI toàn cầu ngày càng “phân mảnh” sâu sắc theo các khối liên minh; nói cách khác, dấu ấn địa lý của FDI tỷ lệ thuận với xu hướng liên kết địa chính trị hiện nay, thể hiện qua tỷ trọng FDI giữa các nền kinh tế có liên kết địa chính trị đã không ngừng tăng lên, vượt trội so với tỷ trọng FDI giữa các nước gần gũi thuần túy về mặt địa lý. 

Bởi vậy, xác định lại các lợi thế cạnh tranh của nước ta trong giai đoạn mới, không chỉ dựa vào giá nhân công rẻ, nguồn lao động dồi dào, mà còn là các yếu tố mới, như tay nghề công nhân, cơ sở hạ tầng, thân thiện với môi trường, mức độ làm quen với các dự án công nghệ và yêu cầu bảo hộ sở hữu trí tuệ, nguồn gốc xuất sứ... sẽ giúp chúng ta thu hút đúng loại hình doanh nghiệp FDI cho giai đoạn mới.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã có định hướng chọn lọc các dự án FDI kỹ càng hơn, nâng cao các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường, giảm lượng khí thải để hướng tới phát triển bền vững và tuân thủ các cam kết chống biến đổi khí hậu, cũng phần nào tác động đến dòng vốn FDI.

 Theo Ngân hàng Thế giới (WB), trong các nguyên nhân sâu xa khiến dòng vốn FDI vào Việt Nam suy giảm đã được chỉ ra, còn có những vấn đề liên quan đến môi trường đầu tư kinh doanh, đến năng lực hấp thụ và sự chuẩn bị sẵn sàng để đón dòng vốn lớn, bao gồm cả về đất đai, nhân lực, hạ tầng, công nghiệp hỗ trợ…

Đặc biệt, một trong những vấn đề nóng nổi bật trong thu hút FDI trên thế giới, cũng như ở Việt Nam là vấn đề ưu đãi thuế trong bối cảnh thực thi chính sách thuế tối thiểu toàn cầu 15% theo trụ cột 2 của chương trình chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) từ năm 2024. Cụ thể, theo Tổng Giám đốc Tổ hợp Samsung Việt Nam Choi Joo Ho, khi áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu thì chính sách ưu đãi miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam đang triển khai hiện nay sẽ suy giảm tác dụng...

 Về mặt dài hạn, đây là cơ hội rất tốt để Việt Nam tái cấu trúc chiến lược thu hút FDI, từ mô hình kinh tế truyền thống chuyển sang kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh và bền vững, tạo cơ sở hướng tới những dự án tỉ đô trong tương lai. Song trước mắt, để duy trì lợi thế ưu đãi, Việt Nam cần nghiên cứu và sớm đưa ra giải pháp hỗ trợ ngoài thuế cho doanh nghiệp FDI...

Trên thực tế, Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính) đang nghiên cứu, đề xuất chính sách hỗ trợ thay thế những ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp FDI bị ảnh hưởng khi Việt Nam triển khai áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu 15%. Đồng thời, nghiên cứu quyền đánh thuế bổ sung các dự án đầu tư trực tiếp  của Việt Nam ra nước ngoài nếu thuộc diện áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu và đang được hưởng mức thuế suất thực tế thấp hơn 15%.

Về nguyên tắc, việc hỗ trợ doanh nghiệp khi áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu được thực hiện bằng cách Chính phủ dùng các khoản thu thuế tối thiểu đó để hỗ trợ lại doanh nghiệp cho nghiên cứu và phát triển, đầu tư trang thiết bị, sản xuất công nghệ cao dựa trên đặc điểm, tính chất, tiêu chuẩn của từng loại hình doanh nghiệp (ví dụ, Ấn Độ có chính sách hỗ trợ một khoản tiền nhất định theo mỗi sản phẩm sản xuất bán ra).

Bởi vậy, tới đây, Việt Nam cần sớm ban hành chính sách về triển khai thuế tối thiểu toàn cầu và tiến hành luật hóa các chính sách cụ thể có liên quan; Trong đó, tập trung xây dựng và áp dụng quy trình - thủ tục kê khai thuế tối thiểu toàn cầu theo hướng dẫn của OECD; làm rõ đối tượng, phạm vi và phương thức, mức độ hỗ trợ các đối tượng bị ảnh hưởng; đồng thời, tiếp tục kiện toàn và nâng cao năng lực công tác quản lý thuế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đáp ứng tính chất cạnh tranh ngày càng phức tạp, tinh vi, có tính hội nhập cao và xuyên biên giới. Việc ban hành bất cứ chính sách hoặc cơ chế mới nào cũng cần được xem xét cẩn trọng để đảm bảo tính công bằng cho các doanh nghiệp thuộc phạm vi và không thuộc phạm vi điều chỉnh của Trụ cột 2, đảm bảo thống nhất với quy định về bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư theo Luật Đầu tư hiện tại, cũng như không vi phạm các cam kết quốc tế và quy định của OECD mà Việt Nam đang tham gia

Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần có kế hoạch tập huấn các nội dung chính sách, quy trình liên quan, trong đó nổi bật vấn đề thời điểm áp dụng, cũng như quy định về giải quyết tranh chấp liên quan, có nghiên cứu bổ sung cơ chế trọng tài để giải quyết tranh chấp...

Theo tinh thần Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 và Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài mà Chính phủ đã ban hành, giai đoạn 2021-2030, Việt Nam sẽ thu hút các dự án công nghệ cao, quản trị hiện đại, giá trị gia tăng cao và có tác động lan tỏa tích cực, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, trực tiếp hỗ trợ quá trình thực hiện chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam.

Để thực hiện thành công các mục tiêu này, bên cạnh yêu cầu bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, kinh tế vĩ mô, vị thế và năng lực cạnh tranh môi trường kinh doanh quốc tế, Việt Nam cũng cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật, nâng cấp chính sách thu hút và sử dụng FDI (trước hết là thời hạn visa doanh nghiệp, thủ tục và chi phí tuân thủ về cấp phép đầu tư, đăng ký thành lập doanh nghiệp, kiểm tra – giám sát hải quan, giá thuê đất khu công nghiệp và loại bỏ cac chi phí không chính thức...), nhằm hướng mạnh FDI vào tăng trưởng xanh, chuyển đổi số và kết nối chuỗi cung ứng của doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp FDI, nhất là các tập đoàn xuyên quốc gia; hiện đại hoá hạ tầng kinh tế-xã hội và đẩy mạnh cải cách hành chính quốc gia, phát triển nguồn nhân lực và hệ sinh thái về khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo với cơ chế quản lý linh hoạt, phù hợp môi trường kinh doanh số; tạo được môi trường kinh doanh phù hợp với yêu cầu và tạo thuận lợi cho cho các tập đoàn lớn có thể đầu tư lâu dài vào các lĩnh vực ưu tiên, xây dựng các quy định, tiêu chuẩn nhằm sàng lọc hiệu quả nhà đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến, thân thiện môi trường và năng lực sản xuất tốt.

Đặc biệt, Việt Nam cần hình thành hệ sinh thái hỗ trợ thực chất chuỗi các nhà cung ứng nội địa nâng cao năng lực quản trị hiện đại, cải tiến liên tục (Kaizen)  và phát triển ổn định, bền vững, sản xuất sản phẩm đáp ứng được các tiêu chuẩn thế giới (như Mỹ, Anh, châu Âu…); nỗ lực tiến tới cung ứng sản phẩm mang thương hiệu của mình để vừa có lợi nhuận cao, vừa nâng cao tinh thần tự tôn dân tộc, tự hào thương hiệu Việt... 

TS.Nguyễn Minh Phong - ThS.Nguyễn Trần Minh Trí