Cần cải cách chính sách giá điện trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 – 2020

00:00 12/10/2020

Quy hoạch phát triển điện quốc gia hiệu chỉnh vừa được phê duyệt, nhằm hướng tới tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo, giảm nhu cầu nhiên liệu hóa thạch, giảm công suất và số lượng nhà máy nhiệt điện than. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, để làm được thì cần phải cải cách chính sách giá điện.

nghanh-dien

Vừa qua, Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 – 2020, có xét đến năm 2030 hiệu chỉnh (QHĐ VII HC) đã được Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt. Theo đó, số lượng các nhà máy nhiệt điện than giảm 18 nhà máy, và tổng công suất nguồn nhiệt điện than từ trên 75 GW giảm xuống còn xấp xỉ 55 GW, tương đương giảm khoảng 20 GW ở năm 2030, theo đó tỷ trọng công suất nhiệt điện than chiếm 42,7% tổng công suất đặt (so với tỷ trọng 52% trong QHĐ VII, giảm 10%).

Trong khi đó, công suất của nguồn điện từ năng lượng tái tạo (NLTT) tăng từ khoảng 13 GW trong QHĐ VII lên tới 27,2 GW ở năm 2030, đạt khoảng 62% so với mục tiêu của Chiến lược NLTT (nếu kể cả thủy điện lớn và vừa, tỷ trọng công suất nguồn NLTT chiếm 37.9% tổng công suất đặt).

QHĐ VII HC nhằm hướng tới việc tăng tỷ trọng NLTT, giảm bớt nhu cầu nhiên liệu hóa thạch, giảm bớt công suất và số lượng nhà máy nhiệt điện than... Tuy nhiên, phân tích của Liên minh Năng lượng Bền vững Việt Nam (VSEA) cho thấy, nhìn vào cơ cấu nguồn điện trong QHĐ VII HC, nhiệt điện than vẫn dự kiến chiếm tới hơn 50% tổng sản lượng điện sản xuất trong 10 và 15 tới. Khối lượng than nhập khẩu để phát điện dự kiến vào năm 2030 lên tới hơn 85 triệu tấn, cao gần gấp đôi so với lượng than cung ứng nội địa!

Kịch bản này đặt ra câu hỏi lớn với an ninh năng lượng của Việt Nam. Liệu an ninh năng lượng quốc gia có được đảm bảo khi theo phương án hơn một nửa hệ thống điện phụ thuộc vào nhiệt điện than, trong đó 2/3 nguồn nhiên liệu phụ thuộc vào bên ngoài?

Trên thực tế, đây là nguồn điện không được cộng đồng trong nước và quốc tế ủng hộ tiếp tục phát triển, vì là một trong những nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất.

Bên cạnh đó, những quan ngại về ô nhiễm không khí và ảnh hưởng tới sức khỏe do sản xuất điện than cũng là bài học lớn từ trường hợp nhiệt điện Vĩnh Tân 2 – Việt Nam, cũng như từ kinh nghiệm của Trung Quốc, và các quốc gia đã và đang phụ thuộc vào nhiệt điện than.

Nguồn điện này hiện cũng đang có giá thành được cho là rẻ ở Việt Nam, vì những tác động và ảnh hưởng vô cùng to lớn tới môi trường sinh thái và xã hội chưa được đánh giá đầy đủ và tính toán vào giá thành.

Tỷ trọng của NLTT đã được tăng lên (37,9% tổng công suất đặt năm 2030) trong QHĐ VII HC nhưng bao gồm cả thủy điện lớn và vừa, trong khi năng lượng gió và mặt trời là hai nguồn NLTT được mong đợi phát triển nhất thì vẫn chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn.

Thực tế phát triển NLTT trên thế giới đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. Theo báo cáo của Chương trình môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP), đầu tư của thế giới vào NLTT cao gấp hai lần so với đầu tư vào nguồn điện từ nhiên liệu hóa thạch trong năm 2015.

Lần đầu tiên trong năm 2015, đầu tư vào NLTT của các quốc gia không thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cao hơn 20% so với các nước phát triển. Kỹ thuật - công nghệ trong lĩnh vực này, đặc biệt là với điện năng lượng mặt trời đang được cải thiện hàng ngày, giá thành công nghệ giảm nhanh có thể cạnh tranh được với điện từ nhiên liệu hóa thạch.

Tại Ấn Độ, giá điện cho 1kWh từ năng lượng mặt trời khoảng 6,5 cent, hiện đang rẻ hơn so với nhiệt điện than - theo lời của Bộ trưởng Bộ Năng lượng Ấn Độ.

Ngoài ra, vấn đề sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả cũng chưa được đề cập rõ ràng cụ thể trong QHĐ VII HC. Theo một nghiên cứu của Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) về dự báo nhu cầu điện của Việt Nam đến năm 2030, có tính tới kịch bản tiết kiệm năng lượng, nhu cầu điện có thể giảm tới 33,8% so với QHĐ VII, lớn hơn nhiều con số 18% mà QHĐ VII HC đưa ra.

Từ những quan sát trên, VSEA cho rằng, để hiện thực hóa các định hướng mà QHĐ VII HC đã đề ra và khắc phục những khoảng trống hiện thời, trước tiên cần cải cách chính sách tính giá điện.

Giá điện cần phải minh bạch và bao gồm đầy đủ các chi phí ngoại biên về môi trường, xã hội và thuế carbon.

Cùng lúc đó, cần khẩn trương ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn về việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả và các công nghệ tiên tiến theo tiêu chuẩn quốc tế đối với nhà máy nhiệt điện than mới.

Cần thường xuyên nghiên cứu hiệu quả đầu tư của các nhà máy điện theo các kịch bản phát triển khác nhau, để tạo sự đột phá cho phát triển NLTT trong Quy hoạch điện VIII giai đoạn sắp tới.

Việt Nam đã được biết đến là một trong những nước dẫn đầu thế giới về số lượng các nhà máy nhiệt điện than được quy hoạch xây mới với công suất dự kiến khoảng 60.000 MW, chỉ đứng sau Ấn Độ và Trung Quốc.

Thực tế, nguồn nhiệt điện than của Trung Quốc đã giảm khoảng 4%/năm, dựa trên con số báo cáo suy giảm năm 2014. Nhập khẩu than của Ấn Độ giảm 15% trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 12.2015.

Thùy Linh/nguoidothi