Phát triển hạ tầng công nghiệp - "Bệ phóng" giúp ngành logistics bay cao

14:40 07/06/2024

Việc xây dựng và phát triển hạ tầng công nghiệp là yếu tố quyết định. Một hạ tầng công nghiệp phát triển giúp ngành logistics "bay cao" và đóng vai trò như một bệ phóng cho sự phát triển bền vững của ngành này.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa.

Trong đó, hạ tầng công nghiệp bao gồm các yếu tố cơ sở vật chất như cảng biển, sân bay, cầu đường, kho bãi, và các khu công nghiệp. Đầu tư vào hạ tầng công nghiệp giúp tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, giảm chi phí vận chuyển, nâng cao hiệu suất hoạt động và tăng cường khả năng cạnh tranh của ngành logistics. Dưới đây là một số yếu tố quan trọng mà hạ tầng công nghiệp phát triển mang lại cho ngành logistics.

Một hạ tầng công nghiệp phát triển tạo điều kiện thuận lợi để kết nối các khu vực sản xuất với các cảng biển và sân bay. Điều này giúp giảm thời gian và chi phí vận chuyển, cải thiện khả năng đáp ứng nhanh chóng và linh hoạt của ngành logistics.

Do vậy, hạ tầng công nghiệp bao gồm việc xây dựng các kho bãi hiện đại và khu vực lưu trữ. Nhờ đó, ngành logistics có thể tối ưu hóa quy trình quản lý hàng hóa, đảm bảo an toàn và hiệu quả trong việc lưu trữ, và đáp ứng được yêu cầu đa dạng của khách hàng.

Ngoài ra, hạ tầng công nghiệp phát triển cung cấp cơ sở vật chất để triển khai công nghệ và tự động hóa trong quá trình vận chuyển và quản lý chuỗi cung ứng. Sử dụng công nghệ thông tin, hệ thống quản lý kho, các giải pháp IoT và trí tuệ nhân tạo giúp tăng cường sự chính xác, tối ưu hóa quy trình và nâng cao năng suất lao động.

Bên cạnh đó, việc hạ tầng công nghiệp phát triển cung cấp không gian và cơ sở vật chất cho việc xây dựng khu công nghiệp và cụm logistics. Các khu công nghiệp và cụm logistics tập trung định vị các doanh nghiệp và dịch vụ logistics gần nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác, chia sẻ nguồn lực và tối ưu hóa quy trình.

Hạ tầng công nghiệp phát triển có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển bền vững của ngành logistics. Đầu tư vào các công nghệ tiên tiến và hệ thống quản lý môi trường giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo và giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Đồng thời, xây dựng hạ tầng công nghiệp bền vững cũng góp phần vào việc tạo ra cơ hội việc làm và phát triển kinh tế địa phương.

Tuy nhiên, để đạt được những lợi ích trên, việc phát triển hạ tầng công nghiệp cần sự đầu tư đúng đắn và quy hoạch chiến lược. Chính phủ, các tổ chức quản lý và doanh nghiệp cần hợp tác chặt chẽ để xác định các ưu tiên phát triển hạ tầng, đảm bảo tính liên kết và hiệu quả của các dự án, và đảm bảo sự bền vững trong quá trình phát triển.

Do vậy, việc đào tạo và phát triển nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực logistics cũng là yếu tố quan trọng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của ngành công nghiệp. Đầu tư vào đào tạo và nâng cao kỹ năng cho các nhân viên logistics giúp tăng cường hiệu suất làm việc và nâng cao chất lượng dịch vụ.

Như vậy, việc phát triển hạ tầng công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc giúp ngành logistics "bay cao". Qua việc cải thiện khả năng kết nối, tăng cường khả năng quản lý và lưu trữ, đẩy mạnh công nghệ và tự động hóa, phát triển khu công nghiệp và cụm logistics, và hỗ trợ phát triển bền vững, ngành logistics sẽ có cơ sở vững chắc để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường và góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước.

Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho hay, việc xây dựng Dự thảo Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến 2045 (Dự thảo Chiến lược) nhằm phát triển ngành dịch vụ logistics đồng bộ, toàn diện và tương xứng với tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn tới.

Theo đó, giai đoạn 2025 – 2035, trong dự thảo Chiến lược đặt mục tiêu tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 5% - 7%. Tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành dịch vụ logistics hằng năm đạt 12% - 15%. Tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 70% - 80%. Chi phí logistics giảm xuống tương đương 12% - 15% GDP. Xếp hạng theo chỉ số LPI trên thế giới đạt thứ 40 trở lên (do Ngân hàng Thế giới công bố).

Đại Hải