Liên kết vùng: Thách thức và tiềm năng

09:21 11/08/2023

Việc tận dụng tiềm năng của từng vùng và thực hiện liên kết dưới góc độ kinh tế tri thức, kinh tế xanh, là chìa khóa để nâng cao hiệu quả sản xuất, tạo giá trị gia tăng và thúc đẩy phát triển bền vững trong nền kinh tế nông nghiệp của Việt Nam.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa.

Trong những năm qua, việc tạo ra sự liên kết mạnh mẽ giữa các vùng và giữa doanh nghiệp với nông dân đã được coi là giải pháp quan trọng để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên, theo ông Hoàng Anh Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương), việc liên kết vùng vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Trong đó, việc xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm - yếu tố quan trọng bảo đảm tính hiệu quả - chưa thể hiện rõ trong quá trình thực hiện quy hoạch và kế hoạch liên kết vùng hiện tại.

Một trong những điểm yếu nổi bật của liên kết vùng là sự lỏng lẻo trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nông dân. Mặc dù doanh nghiệp được kỳ vọng sẽ đóng vai trò dẫn dắt nông dân tiếp cận thị trường, tuy nhiên, việc này đang gặp rất nhiều khó khăn. Doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong việc hỗ trợ nông dân, vì nhiều sản phẩm không đạt đủ điều kiện chất lượng để có thể tham gia vào chuỗi cung ứng.

Tại Diễn đàn "Liên kết vùng trong phát triển kinh tế để phát huy thế mạnh địa phương" tại Hà Nội, bà Trần Thị Thu Hằng, Tổng giám đốc Công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Việt Nam, đã chia sẻ về khó khăn lớn nhất đối mặt trong quá trình liên kết vùng, đó là lòng tin của nông dân vào doanh nghiệp. Đặc biệt là trong các hợp tác xã (HTX) tại vùng sâu, vùng xa, khả năng thực hiện cam kết của nông dân thường rất yếu. Bà Hằng đã đưa ra ví dụ về việc HTX cam kết cung ứng sản phẩm với giá cao cho công ty, nhưng lại bán hàng tốt cho các siêu thị và chỉ giao hàng loại thứ hai cho công ty. Ngoài ra, tình trạng sản phẩm không đạt chất lượng cam kết cũng là một vấn đề đáng lo ngại.

Sự thiếu lòng tin cũng được bà Nguyễn Thị Huyền, Tổng giám đốc Công ty CP sản xuất và xuất khẩu quế hồi Việt Nam (Vinasamex), đề cập. Bà Huyền đã mất tới ba năm để thuyết phục các hộ nông dân tham gia cùng doanh nghiệp và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, qua việc hỗ trợ đào tạo, nhiều hộ nông dân đã có sản lượng tốt hơn, bán được giá cao hơn và có đầu ra ổn định. Nhưng để thực hiện thành công, sự cam kết và lòng tin của cả hai bên là quan trọng.

Từ góc nhìn của người sản xuất, ông Tạ Việt Hùng, Giám đốc HTX Nông trại xanh Ba Vì, đã nhấn mạnh rằng việc liên kết vùng cần tạo ra giá trị thực sự cho cả hai bên. Ông cho rằng doanh nghiệp cần phải đảm nhận vai trò "đặt hàng" cho nông dân, xác định rõ sản phẩm cần sản xuất, tiêu chuẩn và mẫu mã. Tuy nhiên, trong thực tế, nông dân vẫn phải tự "bơi" và không có cơ hội giao lưu với các đối tác đầu ra.

Tính đến hết tháng 6, Việt Nam có hơn 30.000 HTX và gần 121.000 tổ hợp tác, trong đó có hơn 76.000 tổ hợp tác nông nghiệp. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Thịnh, Phó Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, nhận định rằng liên kết giữa các địa phương chưa thực sự hiệu quả, và vai trò của các chủ thể liên kết như doanh nghiệp và tổ chức kinh tế vẫn chưa được khai thác hết tiềm năng. Do đó, để tạo ra sự kết nối mạnh mẽ giữa các bên, cần có sự tập trung và nỗ lực từ tất cả các phía.

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn), đã nêu rõ rằng, để thực sự đạt được sự liên kết vùng mạnh mẽ, cần phải vượt qua cách làm cũ và thực hiện liên kết vùng dưới góc độ kinh tế tri thức, kinh tế xanh và theo hướng cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Điều này yêu cầu sự nhận thức từ các địa phương về lợi ích thực sự của liên kết vùng và tạo môi trường thuận lợi để thúc đẩy hoạt động kinh tế và đầu tư.

TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), đã nhấn mạnh đối với một nền kinh tế còn đang phát triển, sản xuất nhỏ lẻ và thiếu liên kết, cần có những điều chỉnh thích ứng. Đặc biệt, cần chuyển đổi từ cách sản xuất kinh doanh truyền thống sang mô hình sản xuất chuỗi liên kết, khai thác triệt hạng lợi thế từ quy mô kinh tế.

Theo đó, ông Lê Đức Thịnh khuyến nghị rằng, các doanh nghiệp và HTX cần phải thực hiện tư duy và chuyển đổi mạnh mẽ hơn, bằng cách tăng cường hợp tác và liên kết với các đối tác ở các địa phương khác trong vùng. Điều này không chỉ giúp tạo ra hiệu suất kinh tế cao hơn mà còn tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững trong tương lai.

Một góc nhìn quan trọng từ TS. Vũ Mạnh Hùng, Vụ trưởng Vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn (Ban Kinh tế Trung ương), là việc mỗi địa phương và vùng cần hiểu rõ thế mạnh, tiềm năng và sự khác biệt của mình. Điều này đặc biệt cần thiết trong bối cảnh kinh tế nông nghiệp đang ở giai đoạn phát triển chưa đồng đều và còn nhiều hạn chế. Để có sự thay đổi, cần tiến hành việc chuyển đổi từ phương thức sản xuất kinh doanh truyền thống sang mô hình sản xuất liên kết, khai thác quy mô kinh tế.

Ông Hùng cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp quy hoạch vùng nông nghiệp chuyên môn hóa với quy hoạch phát triển ngành hàng. Điều này giúp tập trung nguồn lực và chính sách vào các sản phẩm thế mạnh, tạo ra quy mô sản xuất lớn hơn, đầu ra ổn định và tạo ra giá trị gia tăng cao hơn cho nông sản Việt.

Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu này, cần phải cải thiện môi trường pháp luật và tạo ra các quy chuẩn chất lượng rõ ràng hơn. Sự hỗ trợ trực tiếp từ Nhà nước, cùng với việc hoàn thiện khung pháp lý và chính sách, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tăng tính liên kết trong phát triển kinh tế nông nghiệp.

Việc thúc đẩy liên kết vùng và doanh nghiệp - nông dân đòi hỏi một sự thay đổi toàn diện trong cách tư duy và hành động.

Phương Thanh