VCCI kiến nghị giảm VAT 2% cho tất cả hàng hóa, dịch vụ

17:13 27/05/2024

VCCI đề xuất cơ quan soạn thảo cân nhắc phương án giảm thuế VAT cho tất cả hàng hóa, dịch vụ từ mức 10% xuống 8%, thay vì chỉ áp dụng với một số nhóm.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa.

Cuối tháng trước, Chính phủ đề xuất Quốc hội tiếp tục giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) từ 10% xuống 8% trong 6 tháng cuối năm, tức kéo dài 6 tháng so với quyết định chốt cuối năm ngoái.

Chính sách này chỉ áp dụng với một số nhóm hàng hóa dịch vụ giống các lần giảm VAT trước đó. Một số nhóm không được giảm như viễn thông, công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, bất động sản, kim loại, khai khoáng (trừ than), than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản phẩm hóa chất, hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.

Góp ý về đề xuất này, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đánh giá chính sách giảm thuế VAT thời gian qua tác động tích cực đến nền kinh tế. Trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn, việc tiếp tục chính sách này từ tháng 7 đến cuối năm nay là "hết sức cần thiết".

Tuy nhiên, VCCI đề xuất cơ quan soạn thảo cân nhắc phương án giảm thuế VAT cho tất cả hàng hóa, dịch vụ từ mức 10% xuống 8%, thay vì chỉ áp dụng với một số nhóm.

Theo nhìn nhận của VCCI, dù Chính phủ đã ban hành Nghị định 15/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 và Nghị định 44/2023/NĐ-CP ngày 30/6/2023 hướng dẫn nhưng quá trình triển khai vẫn còn nhiều lúng túng.

Hai nghị định này được xây dựng dựa trên mã ngành kinh tế Việt Nam, trong khi văn bản này từ trước đến nay chủ yếu được sử dụng với mục đích thống kê chứ hiếm khi được coi là căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, việc cụ thể hoá các nhóm hàng hoá, dịch vụ rất khó khăn, đặc biệt là đối với những trường hợp không có pháp luật chuyên ngành.

Đơn cử, nhóm hàng hoá viễn thông và công nghệ thông tin rất khó xác định do không có định nghĩa rõ ràng trong các văn bản pháp luật khác. Nhiều loại hàng hoá, dịch vụ khác cũng gặp vướng mắc phân loại như sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản xuất hoá chất cũng rất chung chung và khó phân loại.

"Nhiều trường hợp doanh nghiệp tra cứu Phụ lục của Nghị định 15 và 44 nhưng không dám khẳng định hàng hoá, dịch vụ của mình thuộc diện thuế suất 10% hay 8%", văn bản VCCI nêu.

Chẳng hạn, một doanh nghiệp chuyên sản xuất mặt hàng tủ điện phục vụ hệ thống phòng cháy, chữa cháy. Công ty mua vật tư, linh kiện về để sản xuất thành thành phẩm tủ điện nhưng vật tư, linh kiện lại có chất liệu khác nhau nên công ty chưa chắc chắn thuế suất thuế giá trị gia tăng là 8% hay 10%.

Cụ thể, vật tư, linh kiện cấu thành thành phẩm tủ điện gồm: thiết bị cơ khí, chiếm 15% giá trị thành phẩm tủ điện, các chi tiết có thuế suất thuế giá trị gia tăng mua vào là 10%

Thiết bị đóng cắt (thiết bị điện), chiếm 30% giá trị thành phẩm tủ điện, các chi tiết có thuế suất thuế giá trị gia tăng mua vào là 8%.

Thiết bị truyền dẫn (thanh kim loại đồng, dây cáp điện lõi kim loại đồng,...), chiếm 20% giá trị thành phẩm tủ điện, các chi tiết có thuế suất thuế giá trị gia tăng mua vào là 10%.

Thiết bị bảo vệ, điều khiển và hiển thị giám sát, chiếm 18% giá trị thành phẩm tủ điện, các chi tiết có thuế suất thuế giá trị gia tăng mua vào là 8%.

Thiết bị kết nối trung gian (đầu cos nối dây điện, ốc vít...), chiếm 5% giá trị thành phẩm tủ điện, các chi tiết có thuế suất thuế giá trị gia tăng mua vào là 10%. Chi phí nhân công chiếm 12% giá trị thành phẩm tủ điện.

"Thuế suất thuế giá trị gia tăng bán ra của sản phẩm tủ điện công ty tôi cung cấp là 8% hay 10%", đại diện công ty băn khoăn.

Sau khi hỏi cơ quan thuế, cơ quan Hải quan, Bộ Tài chính, các doanh nghiệp này đều nhận được câu trả lời rất chung chung: “Đề nghị công ty căn cứ Quyết định số 43/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đối chiếu mã sản phẩm của hàng hóa, dịch vụ mà công ty cung cấp với mã sản phẩm của hàng hóa, dịch vụ tại Phụ lục I, II, III ban hành kèm theo Nghị định số 44/2023/NĐ-CP để thực hiện đúng theo quy định”.

Cũng theo VCCI, khó khăn trong việc xác định thuế suất 8% hay 10% gây nhiều chi phí xã hội và làm tăng rủi ro của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp phản ánh họ phải thuê thêm người làm kế toán để điều chỉnh hoá đơn và sổ sách cho đúng với mức thuế mới.

Không ít doanh nghiệp phản ánh tình trạng đàm phán mua bán hàng hoá, thoả thuận xong hết với khách hàng về số lượng, chất lượng, giá cả nhưng không thống nhất về mức thuế 8% hay 10% nên không ký được hợp đồng. Đã có trường hợp doanh nghiệp thực hiện các gói thầu xây lắp phát sinh tranh chấp với đối tác khi quyết toán chỉ vì hai bên có quan điểm khác nhau về mức thuế suất.

Với những lý do trên, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc phương án giảm thuế giá trị gia tăng cho tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ từ mức 10% xuống mức 8%.

Phương Hà (t/h)