![]() |
Nghị quyết số 68-NQ/TW xác định kinh tế tư nhân là “động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế. |
Ngày 4-5-2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân do Tổng Bí thư Tô Lâm ký, đánh dấu một bước ngoặt mang tính cải cách sâu sắc, tiếp nối và nâng tầm tư tưởng Đổi Mới bắt đầu từ năm 1986. Nghị quyết này không chỉ đặt ra những chỉ tiêu định lượng cụ thể, mà quan trọng hơn, thể hiện thay đổi mang tính lịch sử trong tư duy quản trị và xây dựng thể chế kinh tế tại Việt Nam.
Không còn là “một trong những động lực” hay “một động lực quan trọng” như các văn kiện trước, Nghị quyết số 68 xác định kinh tế tư nhân là “động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế. Điều này cho thấy sự dịch chuyển rõ ràng về tư tưởng của Đảng sau gần 40 năm đổi mới, trong bối cảnh khu vực tư nhân đóng góp 50% GDP, 30% thu ngân sách và tạo việc làm cho 82% lao động cả nước.
Nhằm làm rõ chiều sâu chính sách và tác động thực tiễn của Nghị quyết số 68-NQ/TW đối với kinh tế tư nhân, phóng viên Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập đã có cuộc trao đổi với TS. Tô Hoài Nam – Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.
![]() |
TS. Tô Hoài Nam – Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam |
Phóng viên (PV): Nghị quyết số 68-NQ/TW nhấn mạnh vai trò kinh tế tư nhân là " động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia". Ông đánh giá như thế nào về chuyển biến tư duy này so với trước đây? Liệu đây có thể coi là một bước ngoặt tư tưởng trong phát triển kinh tế Việt Nam không?
TS. Tô Hoài Nam: Theo quan điểm của Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về Phát triển kinh tế tư nhân là một chủ trương đúng đắn, kịp thời và mang tính đột phá trên nhiều phương diện. Có thể nói, nghị quyết số 68-NQ/TW đã thắp lửa niềm tin cho doanh nghiệp tư nhân Việt Nam.
Thứ nhất, về mặt quan điểm, Nghị quyết đã thể hiện rõ định hướng đúng đắn của Đảng, cho thấy sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy về vai trò của kinh tế tư nhân, trong đó có khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Từ chỗ chỉ được xem là một khu vực bổ trợ, phối hợp, kinh tế tư nhân nay đã được khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Điểm nổi bật thứ hai là việc lần đầu tiên khu vực kinh tế tư nhân được xác lập vị thế chiến lược một cách rõ ràng. Nghị quyết khẳng định kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của nền kinh tế, cần được hỗ trợ phát triển mạnh mẽ và tạo điều kiện bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Trong đó, yếu tố "bình đẳng" được nhấn mạnh như một nguyên tắc cốt lõi. Đồng thời, Nghị quyết cũng thể hiện cam kết chính trị rõ ràng của Đảng đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân, tạo thêm niềm tin và sự kỳ vọng cho cộng đồng doanh nghiệp.
Cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là khối doanh nghiệp nhỏ và vừa, rất kỳ vọng vào Nghị quyết này. Họ mong đợi Nghị quyết sẽ mở ra những cơ hội mới, đặc biệt là trong việc tạo lập một môi trường đầu tư – kinh doanh thuận lợi, minh bạch và công bằng. Trong thực tế, yếu tố công bằng vẫn còn là điều mà nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa được hưởng đầy đủ. Do đó, việc Nghị quyết nhấn mạnh đến điều này là một điểm cộng rất lớn, phản ánh đúng mong muốn và nhu cầu của doanh nghiệp tư nhân là được cạnh tranh bình đẳng với các khu vực kinh tế khác.
Về mặt quan điểm chung, từ trước đến nay, trong các văn bản quy phạm pháp luật của Đảng và Nhà nước, không có quy định nào thể hiện sự thiếu công bằng. Trên phương diện ngôn từ, mọi thành phần kinh tế đều được nhấn mạnh là bình đẳng như nhau. Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai – từ các chương trình cụ thể đến những quy định chi tiết – thì sự bình đẳng ấy vẫn chưa được thể hiện rõ ràng. Chính vì vậy, lần này, Nghị quyết đã nhấn mạnh rất rõ ràng yêu cầu phải đảm bảo tính công bằng, đây là một điểm vô cùng quan trọng.
Đặc biệt, tôi muốn nhấn mạnh rằng, Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa Việt Nam cũng đã tham gia góp ý trong quá trình xây dựng Nghị quyết số 68 này.
PV: Nghị quyết số 68-NQ/TW lần này đã xác định việc tăng cường khả năng tiếp cận đất đai cho khu vực kinh tế tư nhân là một nội dung then chốt. Theo ông, việc tháo gỡ điểm nghẽn này có ý nghĩa thế nào đối với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như trong việc đảm bảo một môi trường cạnh tranh công bằng, minh bạch như ông vừa nhấn mạnh?
TS. Tô Hoài Nam: Nghị quyết số 68 đã đề cập đến việc cải thiện khả năng tiếp cận các nguồn lực thiết yếu như vốn, đất đai, đào tạo, và khoa học – công nghệ. Những yếu tố này thường được gọi chung là “tiếp cận nguồn lực”, nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn lớn đối với khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng định hướng xây dựng, hoàn thiện thể chế và hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến việc thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo – những lĩnh vực giàu tiềm năng phát triển không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới. Ở nhiều quốc gia, doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò rất quan trọng đối với sự đổi mới và phát triển cộng đồng.
Theo tôi, trong số các nội dung quan trọng được nêu trong Nghị quyết 68, vấn đề tiếp cận đất đai – được đề cập tại mục 3.1 – là một điểm then chốt có ý nghĩa đặc biệt đối với khu vực kinh tế tư nhân. Mục này nhấn mạnh yêu cầu "tăng cường cơ hội tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh cho kinh tế tư nhân", phản ánh rõ quyết tâm tháo gỡ một trong những rào cản lớn nhất hiện nay đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Việc tạo điều kiện để khu vực kinh tế tư nhân có thể tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh và các điều kiện khác là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt, vì nó sẽ góp phần tháo gỡ và giải phóng sức sản xuất to lớn của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chúng ta đều biết rằng đất đai đóng vai trò cực kỳ quan trọng với doanh nghiệp. Việc thiếu mặt bằng là một trong ba khó khăn lớn nhất, kéo dài trong nhiều năm qua mà doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn chưa thể tháo gỡ được, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất. Nói một cách đơn giản, nếu không có mặt bằng thì doanh nghiệp không thể tổ chức sản xuất kinh doanh, càng không thể phát triển bền vững hay dài hạn. Ông cha ta từng nói “mảnh đất cắm dùi”, đây một cách diễn đạt mộc mạc nhưng sâu sắc, cho thấy tầm quan trọng sống còn của đất đai đối với người làm ăn.
Tuy nhiên, do quy mô nhỏ và nguồn lực hạn chế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường bị đẩy ra ngoài lề trong quá trình phân bổ đất đai. Nếu không có quy định rõ ràng về vấn đề này, theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp lớn sẽ dễ dàng gom hết quỹ đất. Vì vậy, việc Nghị quyết số 68 đặt ra yêu cầu rõ ràng về quyền tiếp cận đất đai cho doanh nghiệp tư nhân là vô cùng cần thiết, bởi như đã nói, đất đai gắn liền với khả năng tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
Có được mặt bằng sản xuất ổn định là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp triển khai các kế hoạch đầu tư như mở rộng sản xuất, phát triển sản phẩm mới hoặc chuyển đổi công nghệ. Đây là những điều kiện nền tảng. Vốn, thủ tục hành chính và mặt bằng sản xuất là ba yếu tố cơ bản tạo nên một môi trường cạnh tranh thuận lợi cho doanh nghiệp.
PV: Theo ông, Nghị quyết số 68 có những điểm đột phá gì trong việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là về hạ tầng và chính sách ưu đãi như giảm tiền thuê đất?
TS. Tô Hoài Nam: Nghị quyết lần này có nhiều nội dung mang tính đột phá. Thứ nhất, cho phép địa phương sử dụng ngân sách để hỗ trợ đầu tư hạ tầng – điều này không chỉ là sự cho phép, mà còn là sự phân quyền. Đây là một bước đi quan trọng, mở ra cơ chế giúp các địa phương chủ động phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp và hệ thống hạ tầng cơ sở đồng bộ.
Cụm công nghiệp là môi trường thuận lợi để doanh nghiệp nhỏ và vừa tổ chức sản xuất kinh doanh một cách lâu dài và bền vững. Nghị quyết cũng nêu rõ yêu cầu cần có quỹ đất tối thiểu cho mỗi cụm công nghiệp, điều này đảm bảo không gian phát triển cho các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp trong khu công nghệ cao và lĩnh vực khởi nghiệp sáng tạo được coi là nhóm đích đến quan trọng trong thiết kế chính sách phân tầng, nhằm tránh tình trạng gom đất cho doanh nghiệp lớn khiến doanh nghiệp nhỏ và vừa bị đứng ngoài cuộc. Đây là một chiến lược phân bổ nguồn lực công bằng, hợp lý.
Một điểm đột phá nữa trong nội dung này là chính sách ưu đãi: giảm tối thiểu 30% tiền thuê đất trong 5 năm đầu cho doanh nghiệp. Chính sách này sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ, thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào các khu, cụm công nghiệp – nơi có hạ tầng tốt hơn, thay vì sản xuất tự phát trong khu dân cư như hiện nay, gây ra nhiều hệ lụy về môi trường và an toàn.
![]() |
Do quy mô nhỏ và nguồn lực hạn chế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường bị đẩy ra ngoài lề trong quá trình phân bổ đất đai. |
PV: Thực tế là hiện nay, việc triển khai các chính sách vẫn còn gặp phải khó khăn, đặc biệt là sự chậm trễ và thiếu đồng bộ trong việc thể chế hóa. Từ góc nhìn của mình, ông có thể chia sẻ những giải pháp cụ thể để Nghị quyết số 68 có thể đi vào thực tế một cách hiệu quả, nhất là trong việc thể chế hóa các nội dung và phân tầng chính sách cho các nhóm doanh nghiệp khác nhau?
TS. Tô Hoài Nam: Để Nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống, điều quan trọng là phải thể chế hóa các nội dung này thành quy định pháp luật cụ thể, được ban hành bởi Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền. Thực tế trong quá khứ cho thấy Việt Nam thường có một khoảng cách giữa chủ trương đúng đắn và việc triển khai thực tế – nhiều chính sách tuy đúng nhưng khi thực hiện lại chậm, thiếu đồng bộ.
Chúng tôi kỳ vọng rằng, thể chế hóa Nghị quyết số 68-NQ/TW lần này sẽ khắc phục được những hạn chế đó. Khi thể chế được ban hành, các chính sách cần phải có tính phân tầng, phù hợp với quy mô và đặc điểm của từng loại hình doanh nghiệp. Ví dụ, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ phải khác với doanh nghiệp vừa, khác về quy mô, cách tổ chức và nhu cầu phát triển.
Dù Nghị quyết số 68 ra đời sau Chỉ thị số 10 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhưng đã thể hiện sự nhất quán trong chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc thúc đẩy khu vực doanh nghiệp tư nhân phát triển bền vững và đóng góp tích cực vào nền kinh tế.
Ngoài ra, theo tôi, vai trò của các tổ chức hội cần được xác định rõ ràng và được ghi nhận đúng mức. Ví dụ, với cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần có quy định cụ thể về vai trò của Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam để chúng tôi thực sự trở thành tổ chức đại diện cho khối doanh nghiệp đó. Như tôi đã đề cập ở trên, cần phải có chính sách phân tầng rõ ràng để làm cơ sở cho việc thực hiện nhiệm vụ một cách hiệu quả.
Tôi đề nghị Chính phủ sớm cụ thể hóa các mục tiêu của Nghị quyết số 68 thành một chương trình hành động rõ ràng, có lộ trình thực hiện cụ thể. Trong đó, cần tăng cường vai trò của các hiệp hội, đặc biệt là Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, trong cả quá trình xây dựng và thực thi chính sách. Đồng thời, nên ưu tiên cải cách thể chế kinh doanh theo hướng thực chất để cải thiện thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển.
Về một số kiến nghị cụ thể, mặc dù Nghị quyết 68 đã cho phép các địa phương ưu tiên giải quyết các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa, tôi cho rằng đối với những mục tiêu như tín dụng, đất đai và mặt bằng sản xuất thì thể chế nên quy định bắt buộc thay vì chỉ “cho phép”. Bởi "cho phép" chỉ là trao quyền, tức là địa phương có thể làm hoặc không làm. Nếu quy định là bắt buộc – ví dụ như yêu cầu dành tối thiểu 30% quỹ đất cho doanh nghiệp nhỏ và vừa – thì khi đó, địa phương sẽ phải dựa vào quỹ đất thực tế để xây dựng kế hoạch cụ thể.
Việc bắt buộc này sẽ giúp đảm bảo quy trình, cơ chế rõ ràng hơn, tạo điều kiện để doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được các nguồn lực một cách minh bạch. Các quy định bắt buộc cũng sẽ là cơ sở để thiết kế các chương trình và hướng dẫn cụ thể, qua đó tránh được tình trạng “xin – cho”, vốn là rào cản lớn trong việc tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng.
Khi xây dựng chính sách, cần đặc biệt chú ý đến khả năng hấp thụ của doanh nghiệp nhỏ và vừa, bởi đây vẫn là điểm hạn chế hiện nay. Vì vậy, cần tăng cường truyền thông, hướng dẫn, hỗ trợ cụ thể để các doanh nghiệp này có thể hiểu và thực hiện tốt các chính sách. Việc truyền thông, hướng dẫn này hoàn toàn nằm trong khả năng của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức hội như Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cuối cùng, tôi cho rằng cần hỗ trợ phát triển các khu sản xuất chung, vườn ươm doanh nghiệp với quy mô nhỏ và vừa, cũng như tăng cường hỗ trợ pháp lý và thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp. Đây là điều tôi rất mong muốn trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 68.
PV: Xin cảm ơn ông về cuộc chia sẻ!