Thứ ba 23/09/2025 13:59
Hotline: 024.355.63.010
Góc nhìn Chuyên gia

PGS.TS Trần Chủng: Cần tháo gỡ điểm nghẽn để thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển hạ tầng giao thông

Theo PGS.TS Trần Chủng, xu hướng ngày càng nhiều doanh nghiệp trong nước đề xuất tham gia phát triển hạ tầng giao thông đã khẳng định tầm vóc, nội lực cũng như khát vọng đột phá của khối tư nhân nhằm đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
PGS.TS Lê Xuân Bá: Phá bỏ rào cản, kiến tạo niềm tin cho doanh nghiệp PGS.TS Phan Đăng Tuất: Phát huy tinh thần kinh doanh "chìa khóa" để thúc đẩy sự phát triển
LTS: Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển hạ tầng giao thông, vai trò của khu vực tư nhân ngày càng trở nên quan trọng. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập đã có cuộc phỏng vấn độc quyền với PGS.TS Trần Chủng, Chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam (VARSI), người đã có nhiều năm gắn bó và nghiên cứu sâu sắc về lĩnh vực hạ tầng giao thông. Dưới góc nhìn chuyên gia, bài viết sẽ gửi tới độc giả một góc nhìn đa chiều, từ những bước chuyển mình tích cực đến những rào cản và kỳ vọng đối với khối doanh nghiệp tư nhân.

Phóng viên: Thưa ông, ông đánh giá như thế nào về xu hướng ngày càng nhiều doanh nghiệp trong nước đề xuất tham gia đầu tư vào các dự án hạ tầng giao thông quy mô lớn như cao tốc Bắc – Nam, đường sắt hay sân bay?

PGS.TS Trần Chủng: Đây là một xu hướng rất tích cực và đáng khích lệ. Nhìn lại giai đoạn trước năm 2010, các nhà đầu tư tư nhân chủ yếu tập trung vào lĩnh vực bất động sản với đặc thù lợi nhuận lớn và nhanh chóng thu hồi vốn. Cũng vì hạn chế nguồn lực mà ở một số dự án lớn, chúng ta muốn thực hiện nhưng buộc phải huy động vốn vay ODA (cao tốc đầu tiên Sài Gòn – Trung Lương), hoặc chỉ phân kỳ đầu tư mà không thể triển khai đồng bộ, toàn diện (cao tốc Bắc – Nam phía Đông).

PGS.TS Trần Chủng: Cần tháo gỡ điểm nghẽn để thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển hạ tầng giao thông
PGS.TS Trần Chủng, Chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam (VARSI).

Tuy nhiên, trong khoảng 10 năm trở lại đây, đặc biệt là sau sự ra đời của Luật PPP (2020) và Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân, chúng ta đã chứng kiến sự thay đổi rõ rệt khi ngày càng nhiều doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn dịch chuyển nguồn vốn đầu tư sang hạ tầng giao thông – lĩnh vực vốn đòi hỏi tiềm lực tài chính lớn, kinh nghiệm quản lý dày dặn và sự kiên định trong chiến lược phát triển dài hạn.

Xu hướng dịch chuyển này diễn ra trong bối cảnh Đảng và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh kêu gọi thu hút đầu tư phát triển hạ tầng, khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân tham gia triển khai các công trình giao thông trọng điểm quốc gia. Đồng thời, phương thức đối tác công tư (PPP), mà trong đó Nhà nước và tư nhân cùng phối hợp thực hiện các sản phẩm công để phục vụ xã hội, cũng nở rộ và đạt được nhiều thành công đáng khích lệ, nhất là ở lĩnh vực hạ tầng giao thông với nhiều công trình, dự án mang lại giá trị cao, được dư luận đồng tình, ủng hộ.

Thực tế cho thấy, những doanh nghiệp như Tập đoàn Đèo Cả đã thể hiện rõ năng lực, tinh thần tiên phong và khát vọng đồng hành cùng sự phát triển đất nước. Điều này không chỉ phản ánh sự trưởng thành về kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt, mà còn đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc khẳng định vai trò khu vực tư nhân trong các dự án hạ tầng chiến lược quốc gia.

Phóng viên: Theo ông, đâu là những yếu tố thúc đẩy doanh nghiệp nội địa ngày càng chủ động đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng – vốn trước đây chủ yếu do nhà nước hoặc nhà đầu tư nước ngoài đảm nhiệm?

PGS.TS Trần Chủng: Theo tôi, có hai yếu tố then chốt giải thích cho sự chuyển dịch tích cực này.

Thứ nhất, là sự thay đổi mạnh mẽ về chính sách và khung pháp lý. Trước đây, Nhà nước đã nêu chủ trương huy động nguồn lực xã hội vào phát triển hạ tầng, nhưng cơ chế còn thiếu và chưa đủ chặt chẽ. Chỉ từ sau năm 2010, đặc biệt với sự ra đời của Luật PPP năm 2020 cùng các văn bản hướng dẫn, hệ thống pháp luật mới thực sự hoàn thiện, tạo hành lang minh bạch và ổn định để khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia.

Thứ hai, là khát vọng phát triển gắn với ý thức trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt. Nhiều doanh nghiệp tư nhân ngày nay không chỉ dừng lại ở mục tiêu lợi nhuận, mà còn mong muốn để lại dấu ấn trong sự nghiệp kiến thiết quốc gia, đóng góp vào sự phát triển bền vững cho các thế hệ mai sau. Đây là động lực mang tính nền tảng, vượt ra ngoài lợi ích kinh tế đơn thuần và phản ánh sự trưởng thành của khu vực kinh tế tư nhân.

PGS.TS Trần Chủng: Cần tháo gỡ điểm nghẽn để thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển hạ tầng giao thông
Ngày càng nhiều doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển hạ tầng giao thông.

Phóng viên: Việc doanh nghiệp tư nhân tham gia đầu tư hạ tầng giao thông sẽ mang lại những lợi ích gì cho nền kinh tế nói chung và cho chính các doanh nghiệp nói riêng, thưa ông?

PGS.TS Trần Chủng: Có thể nói, lợi ích từ xu thế khu vực tư nhân tích cực tham gia vào đầu tư hạ tầng giao thông là rất lớn và đa chiều.

Đối với nền kinh tế, sự tham gia này trước hết giúp giảm áp lực cho ngân sách nhà nước, bởi nguồn vốn xã hội được huy động nhiều hơn vào các dự án hạ tầng quy mô lớn. Không những thế, nhờ cơ chế thị trường, các dự án có sự tham gia của tư nhân thường được triển khai với tiến độ nhanh hơn, chi phí hợp lý hơnvà chất lượng công trình được bảo đảm. Đây là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Đối với chính doanh nghiệp, việc tham gia vào các dự án hạ tầng quy mô lớn mang lại cơ hội nâng cao năng lực quản trị, ứng dụng công nghệ hiện đại, mở rộng kinh nghiệm trong tổ chức thi công và quản lý dự án. Qua đó, uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường cũng được củng cố, đồng thời năng lực cạnh tranh được nâng lên một tầm cao mới. Nhiều doanh nghiệp đã chứng minh rằng, khi dấn thân vào lĩnh vực hạ tầng, họ không chỉ tìm kiếm lợi nhuận trước mắt mà còn xây dựng nền tảng phát triển dài hạn và bền vững.

Thực tế từ các dự án BOT thời gian qua đã cho thấy, doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn có thể đảm nhận những công trình quy mô lớn với tiến độ nhanh, chất lượng tốt và chi phí tối ưu. Trong 15 năm qua, đã có nhiều công trình được doanh nghiệp tư nhân triển khai một cách hiệu quả, thể hiện rõ những lợi thế về năng lực quản trị, ứng dụng công nghệ - khoa học kỹ thuật cũng như giải pháp tài chính, khai thác huy động nguồn nhân lực. Nhìn chung, có 3 sự khác biệt lớn giữa các công trình do nhà đầu tư tư nhân đầu tư so với các công trình do sử dụng vốn ngân sách Nhà nước: Tiến độ nhanh, phần lớn vượt kế hoạch; chất lượng tốt và giá thành hợp lý, không vượt tổng mức đầu tư thậm chí còn tiết giảm chi phí do năng suất lao động và khoa học quản trị.

Đặc biệt, khối doanh nghiệp tư nhân có giải pháp rất hiệu quả để sử dụng con người. Có thể họ chưa có kinh nghiệm, nhưng họ biết cách để huy động nhân sự có năng lực chuyên môn, có kiến thức, có kinh nghiệm để triển khai các dự án. Họ không chỉ dừng lại ở việc thuê chuyên gia nước ngoài, mà còn khéo léo đưa đội ngũ nhân sự trong nước vào cùng thực hiện để học hỏi, từng bước hấp thụ kiến thức, công nghệ mới. Điển hình như việc người Việt đã học hỏi và làm chủ công nghệ đào hầm NATM hiện đại, từ đó cải tiến, sáng tạo ra công nghệ NATM “hệ Đèo Cả” để nâng cao chất lượng và đẩy nhanh tiến độ thi công. Đó là điều rất đáng tự hào.

Phóng viên: Hiện nay, theo ông, những rào cản hoặc thách thức lớn nhất mà các doanh nghiệp trong nước phải đối mặt khi tham gia đầu tư hạ tầng giao thông là gì?

PGS.TS Trần Chủng: Mặc dù tiềm năng và khát vọng của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam là rất lớn, song thực tế họ vẫn gặp phải nhiều rào cản không nhỏ.

Thứ nhất, là vấn đề thể chế và cách triển khai nội dung pháp luật vào thực tế. Khung pháp lý về đầu tư hạ tầng, đặc biệt trong các dự án theo phương thức đối tác công-tư (PPP), vẫn còn những điểm chưa thực sự minh bạch, đồng bộ và ổn định. Không ít trường hợp, cách ứng xử không bình đẳng giữa cơ quan có thẩm quyền (thường là các cơ quan nhà nước) khi các cam kết ban đầu của cơ quan có thẩm quyền đối với nhà đầu tư chưa được thực hiện đầy đủ, dẫn đến rủi ro và gây thiệt hại đáng kể cho doanh nghiệp.

Ví dụ, Luật PPP ra đời từ năm 2020 đến nay đã là 5 năm nhưng chưa thực sự đi vào cuộc sống bởi những bất cập trong cơ chế chia sẻ rủi ro, thủ tục pháp lý cồng kềnh, phức tạp… và quan trọng hơn cả là cách vận hành pháp luật trong thực tiễn. Trong mô hình PPP, Nhà nước và khối tư nhân vốn là quan hệ đối tác bình đẳng, song vì một số lý do mà đang có sự chênh lệch nhất định, nhất là khi bộ phận công vẫn giữ tư duy “quản lý”. Đây là một yếu tố khiến nhà đầu tư còn dè dặt thậm chí lạnh nhạt khi tham gia các dự án quy mô lớn, dài hạn theo phương thức PPP.

Thứ hai,bài toán tài chính. Các dự án hạ tầng giao thông thường đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn, thời gian hoàn vốn kéo dài, trong khi hệ thống các quỹ hỗ trợ phát triển hạ tầng ở Việt Nam chưa thực sự phát huy hiệu quả. Điều này khiến doanh nghiệp gặp khó trong việc huy động vốn từ ngân hàng thương mại và thị trường tài chính, làm hạn chế khả năng mở rộng và tham gia sâu vào những dự án trọng điểm quốc gia.

PGS.TS Trần Chủng: Cần tháo gỡ điểm nghẽn để thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển hạ tầng giao thông
PGS. TS Trần Chủng trao đổi với phóng viên Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập.

Đơn cử như dự án mở rộng cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 1 (2017-2020), theo kế hoạch có 8/11 dự án sẽ được triển khai theo mô hình PPP, song có tới 5/8 dự án không có ngân hàng cam kết cho vay, phải chuyển đổi sang đầu tư công. Cần nhớ rằng, đặc thù của các dự án hạ tầng giao thông là vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn kéo dài (15-20 năm hoặc lâu hơn) dẫn tới rủi ro cao, chưa kể hạn mức tín dụng nên nhiều ngân hàng không thể và không muốn cho vay.

Ngoài ra, doanh nghiệp tư nhân cũng phải đối diện với những thách thức về năng lực quản trị, công nghệ và nhân lực chất lượng cao. Hạ tầng giao thông hiện đại không chỉ cần vốn, mà còn cần kỹ thuật tiên tiến, quy trình quản lý chuyên nghiệp và nguồn nhân lực được đào tạo bài bản. Đây là những yếu tố mà doanh nghiệp trong nước cần tiếp tục tích lũy, hoàn thiện để có thể cạnh tranh sòng phẳng với các nhà thầu nước ngoài.

Tóm lại, nếu thể chế được hoàn thiện, cơ chế tài chính thuận lợi hơn và doanh nghiệp chủ động nâng cao năng lực nội tại, tôi tin rằng khu vực tư nhân Việt Nam hoàn toàn có thể đóng vai trò lớn hơn trong sự nghiệp phát triển hạ tầng quốc gia.

Phóng viên: Vậy ông có kỳ vọng gì về vai trò của khu vực tư nhân trong việc phát triển hệ thống hạ tầng giao thông quốc gia trong giai đoạn tới?

PGS.TS Trần Chủng: Tôi có niềm tin rất lớn vào vai trò ngày càng quan trọng của khu vực tư nhân trong lĩnh vực hạ tầng giao thông. Thực tế những năm gần đây đã chứng minh, nhiều doanh nghiệp Việt Nam không chỉ mạnh dạn tham gia vào các dự án lớn mà còn khẳng định được năng lực cạnh tranh, sự sáng tạo và khả năng thích ứng rất nhanh với yêu cầu mới của thị trường.

Điều đáng chú ý là các doanh nghiệp tư nhân đã sẵn sàng đầu tư vào những dự án đòi hỏi công nghệ cao và kỹ thuật phức tạp như đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị hay các công trình ngầm trong đô thị lớn. Đây vốn là những lĩnh vực trước kia chỉ có nhà nước hoặc các nhà thầu quốc tế tham gia. Sự góp mặt của khối tư nhân không chỉ giúp chia sẻ gánh nặng vốn đầu tư với ngân sách, mà còn mang đến những cách tiếp cận linh hoạt, quản trị hiệu quả và khả năng triển khai dự án với tiến độ nhanh, chất lượng bảo đảm.

Nhiều doanh nghiệp đã có sự chuẩn bị bài bản, kỹ lưỡng và toàn diện để đáp ứng những dự án tới đây trong lĩnh vực đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị. Một số đơn vị đã chủ động cử nhân sự đi đào tạo chuyên sâu, học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình thành công ở nước ngoài, đồng thời ký kết thoả thuận đặt mua các thiết bị hiện đại. Nắm bắt được xu thế ứng dụng robot, trí tuệ nhân tạo, không ít doanh nghiệp tư nhân đã đẩy mạnh cập nhật kiến thức, đào tạo nguồn nhân lực và tìm kiếm các đối tác.

Với năng lực quản trị ngày càng chuyên nghiệp, tư duy đổi mới và khát vọng đồng hành cùng sự phát triển đất nước, tôi tin rằng khối doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ đóng góp ngày càng nhiều hơn vào công cuộc kiến thiết hạ tầng giao thông quốc gia. Họ không chỉ giải quyết bài toán thiếu vốn, mà còn góp phần xây dựng một hệ thống hạ tầng hiện đại, đồng bộ, bền vững, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế trong những thập niên tới.

Trân trọng cảm ơn ông!

Tin bài khác
Chuyên gia Đỗ Thu Hằng: Yếu tố nào tác động tới giá và nguồn cung của bất động sản Hà Nội?

Chuyên gia Đỗ Thu Hằng: Yếu tố nào tác động tới giá và nguồn cung của bất động sản Hà Nội?

Thị trường nhà ở Hà Nội phục hồi nhưng vẫn đầy thách thức. Cuộc đối thoại với chuyên gia Đỗ Thu Hằng hé lộ những rào cản và dự báo về sự phân hóa giá trong tương lai.
Phải phổ cập AI toàn dân, Việt Nam mới thành trung tâm hàng đầu khu vực

Phải phổ cập AI toàn dân, Việt Nam mới thành trung tâm hàng đầu khu vực

Trong cuộc trò chuyện cùng Tạp chí Doanh nghiệp & Hội nhập, Chuyên gia AI Nguyễn Đức Long, Giám đốc Học viện Công nghệ AI Việt Nam (AIUni) chia sẻ một góc nhìn đáng suy ngẫm: “AI không chỉ là công nghệ, mà sẽ là kỹ năng sống cơ bản, như đọc – viết – tính toán”. Câu chuyện về AIUni vì thế không đơn thuần là một mô hình đào tạo, mà là nỗ lực kiến tạo hệ sinh thái trí tuệ nhân tạo cho toàn dân, gắn kết từ lớp học nhỏ, tới doanh nghiệp, và cả chính sách quốc gia.
Hành trình chuyển đổi số của Việt Nam qua góc nhìn kiến tạo thể chế

Hành trình chuyển đổi số của Việt Nam qua góc nhìn kiến tạo thể chế

Trong câu chuyện về chuyển đổi số của Việt Nam, ông Nguyễn Phú Tiến, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia đã mang đến những con số biết nói, hé mở một cách tiếp cận mang tầm chiến lược: Coi thể chế như bệ phóng để kiến tạo tương lai.
Ông John Campbell: FDI vào sản xuất tăng 32% là niềm tin của nhà đầu tư

Ông John Campbell: FDI vào sản xuất tăng 32% là niềm tin của nhà đầu tư

Nửa đầu năm 2025, FDI vào sản xuất tăng 32% cho thấy niềm tin của nhà đầu tư. Ông John Campbell chỉ ra những chuyển dịch quan trọng và khuyến nghị để Việt Nam duy trì sức hút bền vững.
Sàn thí điểm giao dịch tài sản mã hóa - Phép thử năng lực của Việt Nam?

Sàn thí điểm giao dịch tài sản mã hóa - Phép thử năng lực của Việt Nam?

Khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 05/2025/NQ-CP về thí điểm thị trường tài sản số, Việt Nam đã chính thức bước vào giai đoạn thử nghiệm, mở ra một động lực tăng trưởng mới. Nhưng đằng sau con số tối đa 5 sàn được cấp phép không chỉ là vấn đề vốn hay kỹ thuật, mà có thể xem như bài kiểm tra về năng lực quản trị quốc gia, khả năng bảo vệ niềm tin xã hội và tầm nhìn chiến lược trong thời đại số.
Thách thức nào chờ đợi Việt Nam trên con đường thành trung tâm tài chính?

Thách thức nào chờ đợi Việt Nam trên con đường thành trung tâm tài chính?

Ông Đậu Anh Tuấn (VCCI) cho rằng để hiện thực hóa tham vọng trung tâm tài chính, cần phải vượt thách thức về công nghệ, nhân lực và sự cạnh tranh gay gắt.
Blockchain - AI - Fintech - Biến bộ ba tri thức chuyển thành tài nguyên thịnh vượng

Blockchain - AI - Fintech - Biến bộ ba tri thức chuyển thành tài nguyên thịnh vượng

Trong thế kỷ XX, quốc gia nào nắm dầu mỏ, đất đai hay nguồn lao động dồi dào sẽ nắm trong tay quyền lực kinh tế. Nhưng bước sang thế kỷ XXI, tài sản quyết định sự thịnh vượng không còn là hữu hình, mà chính là tri thức - khả năng sáng tạo, đổi mới và biến dữ liệu thành nguồn vốn. Nếu biết tận dụng, Việt Nam hoàn toàn có thể biến “chất xám” thành “tài nguyên thịnh vượng”. Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập đã có cuộc trò chuyện với Viện trưởng Viện chiến lược Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Thạc sĩ Nguyễn Trung Kiên đồng thời cũng là Phó Chủ tịch CLB CEO 1983 để bàn về con đường đưa tri thức Việt Nam trở thành sức mạnh kinh tế trong kỷ nguyên số.​​​​​​​
Lãnh đạo Paris Europlace tiết lộ bí quyết xây dựng trung tâm tài chính

Lãnh đạo Paris Europlace tiết lộ bí quyết xây dựng trung tâm tài chính

Phó Tổng Giám đốc Paris Europlace, ông Olivier Vigna, đã chia sẻ kinh nghiệm quý báu về xây dựng trung tâm tài chính. Hợp tác Pháp – Việt hứa hẹn mang đến giải pháp toàn diện để Việt Nam hiện thực hóa tham vọng đột phá.
Xóa mù AI tại Việt Nam - Phải hiểu xu hướng của trí tuệ nhân tạo

Xóa mù AI tại Việt Nam - Phải hiểu xu hướng của trí tuệ nhân tạo

Trí tuệ nhân tạo (AI) đang len lỏi và làm thay đổi mạnh mẽ mọi lĩnh vực, từ cách chúng ta kinh doanh, học tập cho tới cách xã hội vận hành. Việt Nam đang đứng trước một cơ hội lịch sử để bước vào kỷ nguyên AI-First, là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển quốc gia, nơi AI trở thành nền tảng phổ biến như điện hay Internet. Trong cuộc trò chuyện cùng Tạp chí Doanh nghiệp & Hội nhập, chuyên gia Nguyễn Tiệp – Giám đốc đào tạo AIUni đã chia sẻ những góc nhìn gần gũi và sâu sắc về con đường đưa Việt Nam trở thành quốc gia AI-First.
Shark Hưng: Doanh nghiệp tư nhân mong muốn Chính phủ là khách hàng lớn

Shark Hưng: Doanh nghiệp tư nhân mong muốn Chính phủ là khách hàng lớn

Chia sẻ với Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập, Shark Hưng bày tỏ, doanh nghiệp tư nhân mong muốn Chính phủ là khách hàng lớn.
Thượng tá, Tiến sĩ Đào Trung Hiếu: Nhận diện nguy cơ phá vỡ "cảng xanh" và giải pháp cho chuỗi cung ứng dễ tổn thương?

Thượng tá, Tiến sĩ Đào Trung Hiếu: Nhận diện nguy cơ phá vỡ "cảng xanh" và giải pháp cho chuỗi cung ứng dễ tổn thương?

Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh “xanh hóa” hệ thống cảng biển theo các chuẩn mực quốc tế, câu hỏi đặt ra là làm thế nào để mục tiêu môi trường không bị vô hiệu hóa bởi rủi ro an ninh - trật tự ngày càng phức tạp? Từ cướp biển ở tuyến Malacca - Singapore, tội phạm môi trường, đến tấn công mạng vào hạ tầng số của cảng, mọi lỗ hổng đều có thể gây đứt gãy chuỗi cung ứng và để lại hậu quả môi trường nặng nề.
Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam: Thể chế kiến tạo sẽ tăng sức cạnh tranh, giúp doanh nghiệp vươn mình

Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam: Thể chế kiến tạo sẽ tăng sức cạnh tranh, giúp doanh nghiệp vươn mình

Chia sẻ với Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập, bà Lưu Thị Thanh Mẫu - Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam cho rằng, thể chế kiến tạo sẽ làm tăng sức cạnh tranh và giúp doanh nghiệp vươn mình phát triển.
Kiến tạo tinh thần Quốc gia khởi nghiệp sáng tạo: Bài học quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Kiến tạo tinh thần Quốc gia khởi nghiệp sáng tạo: Bài học quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Trong kỷ nguyên số, tinh thần khởi nghiệp sáng tạo không chỉ là động lực tăng trưởng mà còn là nền tảng hình thành bản sắc quốc gia mới.
Chiến lược trải nghiệm khách hàng – chìa khóa sống còn cho startup

Chiến lược trải nghiệm khách hàng – chìa khóa sống còn cho startup

Trong kỷ nguyên mà công nghệ dường như chiếm trọn sự chú ý của mọi ngành hàng, Tiến sĩ Lý Quí Trung – Chủ tịch Viện Doanh nhân Đương đại, nhà sáng lập chuỗi Phở 24 lại khẳng định: trải nghiệm khách hàng mới là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp, chứ không phải công nghệ.
Đừng nghĩ đến làm giàu cá nhân nếu muốn Thương hiệu Việt bứt phá cùng dân tộc

Đừng nghĩ đến làm giàu cá nhân nếu muốn Thương hiệu Việt bứt phá cùng dân tộc

Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới với khát vọng trở thành quốc gia hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc. Trong bức tranh đó, thương hiệu, từ tầm quốc gia đến doanh nghiệp, doanh nhân, không chỉ là tài sản kinh tế, mà còn là sức mạnh tinh thần, là “dáng đứng” của dân tộc trên trường quốc tế. Xây dựng thương hiệu hôm nay chính là kiến tạo di sản cho ngày mai.