| TS. Cấn Văn Lực: 10.000 tỷ – tấm vé vào cuộc chơi tài sản số TS. Cấn Văn Lực: Cần nhìn nhận lại mức độ “vàng hoá” nền kinh tế |
Đầu tư công tạo vốn mồi thúc đẩy tăng trưởng và thu hút tư nhân
Theo TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, đầu tư công đang giữ vai trò ngày càng quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2021-2025. Tỷ trọng đầu tư công đạt khoảng 17,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và bình quân chiếm 5,9% GDP, trở thành một trong những yếu tố then chốt duy trì đà tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Ông Lực cho rằng, mỗi 1 đồng vốn đầu tư công tăng thêm có thể kéo theo khoảng 1,61 đồng vốn đầu tư tư nhân. Điều này cho thấy vai trò “vốn mồi” cực kỳ quan trọng của khu vực vốn Nhà nước trong kích hoạt và dẫn dắt các nguồn lực xã hội cùng tham gia đầu tư phát triển.
Dữ liệu của Bộ Tài chính cho thấy giải ngân đầu tư công đang dần được cải thiện: năm 2021 mới đạt hơn 84% kế hoạch, đến 2025 kỳ vọng đạt 95%, mức cao nhất trong nhiều năm. Tăng trưởng vốn giải ngân liên tục bứt tốc, đặc biệt năm 2025 dự kiến tăng 32% so với năm trước, phản ánh yêu cầu đẩy mạnh đầu tư để tạo dư địa tăng trưởng mới cho nền kinh tế.
![]() |
| TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV (Ảnh: Phan Chính) |
TS. Cấn Văn Lực cho biết, đầu tư công góp phần quan trọng phát triển hạ tầng giao thông, năng lượng, thông tin - viễn thông, hạ tầng số, y tế - giáo dục, củng cố khả năng ứng phó thiên tai và biến đổi khí hậu. Đây là nền tảng không thể thiếu để Việt Nam vươn tới mục tiêu nước thu nhập cao và tránh bẫy thu nhập trung bình như bài học Đông Á.
Mặc dù ghi nhận những kết quả tích cực, chuyên gia BIDV cũng thẳng thắn chỉ rõ những tồn tại trong phân bổ và sử dụng vốn đầu tư công. Cơ cấu đầu tư vẫn nghiêng nhiều về hạ tầng cứng (chiếm tới 80% tổng đầu tư công) nhưng chưa thực sự cân đối giữa các lĩnh vực.
Mặc dù hạ tầng giao thông đang chiếm khoảng 22% tổng vốn đầu tư công, song thực tế triển khai lại cho thấy nhiều dự án chưa đáp ứng được kỳ vọng. Không ít công trình gặp tình trạng chậm tiến độ, thiếu tính kết nối và đồng bộ giữa các tuyến, khiến hiệu quả khai thác chưa được phát huy tối ưu.
Bên cạnh đó, lĩnh vực năng lượng dù được ưu tiên với tỷ trọng 32,3% vốn đầu tư công nhưng vẫn chưa đủ để bắt kịp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Các chuyên gia cảnh báo hiện vẫn còn thiếu hụt tới 35% so với mức cần thiết, đặc biệt tại các khu vực tăng trưởng nóng và các ngành công nghiệp tiêu thụ điện lớn.
Tái cơ cấu vốn và tăng hiệu quả quản trị hướng tới phát triển bền vững
Trong khi đó, các lĩnh vực trực tiếp tác động đến chất lượng nguồn nhân lực và đời sống người dân như giáo dục, khoa học công nghệ và y tế lại chưa được phân bổ tương xứng. Đầu tư cho giáo dục đào tạo mới đạt 10,3%, khoa học công nghệ chỉ chiếm vỏn vẹn 0,45% và y tế ở mức 4,2% — đều thấp hơn đáng kể so với mặt bằng chung của nhiều nước ASEAN. Đây chính là khoảng trống cần nhanh chóng được lấp đầy nếu Việt Nam muốn bứt phá về năng suất và chất lượng tăng trưởng trong dài hạn.
Trong khi đó, để tăng năng suất lao động, đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Việt Nam cần ưu tiên hơn cho các lĩnh vực “hạ tầng mềm” như giáo dục, khoa học công nghệ, y tế, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.
TS. Cấn Văn Lực dẫn chứng, hiện nhu cầu vốn ứng phó biến đổi khí hậu giai đoạn 2022-2040 lên tới 6,8% GDP mỗi năm nhưng đầu tư công mới chỉ đáp ứng được khoảng 0,05% GDP. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tái cơ cấu đầu tư công theo hướng bền vững và dài hạn hơn.
![]() |
| Đầu tư công cho hạ tầng nên giảm dần xuống 50-55% tổng vốn. |
TS. Cấn Văn Lực kiến nghị trong giai đoạn 2026-2030, đầu tư công cho hạ tầng nên giảm dần xuống 50-55% tổng vốn; giáo dục đào tạo phải đạt tối thiểu 20% tổng chi ngân sách, trong đó chi đầu tư đạt ít nhất 5%; chi cho y tế khoảng 10-12%; và dành 3-5% cho KHCN. Đây là điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể bứt phá về năng suất và đổi mới sáng tạo.
Bên cạnh đó, số lượng dự án đầu tư công phải được tinh gọn, không vượt quá 3.000 dự án, kèm theo giải pháp xử lý dứt điểm các dự án tồn đọng, nhất là BOT, BT. Đồng thời, cần chuyển vốn ngay từ các dự án chậm giải ngân sang những dự án có tiến độ tốt, hiệu quả rõ ràng.
Trong bối cảnh nhu cầu vốn cho cơ sở hạ tầng giai đoạn 2026-2030 được ước tính lên đến 261 tỷ USD, tương đương 8,3% GDP mỗi năm, TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh việc khai thác mọi nguồn lực tài chính trong và ngoài nước là cực kỳ quan trọng. Theo đó, cần đa dạng hóa kênh huy động như hợp tác công tư (PPP), trái phiếu hạ tầng, tăng cường vai trò của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) trong tài trợ các dự án trọng điểm.
Ngoài ra, xây dựng và sử dụng hệ thống dữ liệu đầu tư công minh bạch, ứng dụng công nghệ số vào theo dõi, dự báo và điều hành là chìa khóa để đảm bảo hiệu quả đầu tư được nâng lên rõ rệt, kiểm soát được hệ số ICOR về mức 4-5 lần.
Đặc biệt, TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh sau nhiều năm tập trung hoàn thiện thể chế, giai đoạn 2026-2030 cần xem đây là thời điểm “tăng tốc” để dòng vốn đầu tư công thực sự phát huy hiệu quả, góp phần nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế và phát triển bền vững.
“Đầu tư công phải tiếp tục giữ vai trò dẫn dắt để tạo không gian phát triển mới và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia”, TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh.