Thầy ơi!...

00:00 12/10/2020

Nhà văn Trần Tâm - tác giả tiểu luận văn học này - sinh ngày 1. 1.1951 tại phường Cẩm Bình, Tp.Cẩm Phả, Quảng Ninh; cựu công nhân Mỏ than Đèo Nai; Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Ông đã cho xuất bản 7 tập thơ, 2 tập truyện ngắn và 3 tiểu thuyết. Trong đó, bộ tiểu thuyết “Đất bỏng” của ông gồm 4 tập, gần 1500 trang do Nhà xuất bản Thời Đại ấn hành năm 2011. Đây là bộ tiểu thuyết mang đậm tính sử thi, đồ sộ nhất, có thời gian nghệ thuật dài nhất khi viết về công nhân mỏ ở Vùng than Quảng Ninh. Tác phẩm “Đất bỏng” đoạt giải Đặc biệt cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật do Hội nhà văn Việt Nam phối hợp cùng Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam tổ chức năm 2011 và nhiều giải thưởng khác. Câu chuyện “Thầy ơi” của Nhà văn Trần Tâm thực chất là tiểu luận văn học, trong đó bày tỏ quan điểm sáng tác của ông. anh-nha-tho Nhà văn Trần Tâm (thứ nhất, từ phải sang) cùng các nhà thơ: Mai Phương, Vũ Quần Phương, Hữu Thỉnh... Sau hơn chục năm làm thơ, tôi đã có ngót nghét trăm bài. Săn đón cạy cục mãi, tập thơ đầu hoàn thành và được in. Tôi tự chọn chín mươi tám bài đưa lên. Ban biên tập chỉ cắt có hai. Anh em, bạn bè hỉ hả lắm, khen rối lưỡi. Tôi cũng mừng. Mỗi khi nhìn ngắm đứa con tinh thần của mình mà hãnh diện. Lòng lâng lâng, dạt dào cảm xúc. Trên đời, có phải ai cũng làm được thơ, in ấn đàng hoàng trước bàn dân thiên hạ như thế này đâu. Tôi có một anh bạn vong niên cùng quê. Anh là bộ đội hồi kháng chiến chống Pháp. Phục viên về với thẻ thương binh loại 2. Cả vòm ngực hầu như bị xẹp. Ngày hè cởi trần, mỗi khi thở, tảng ngực dập dềnh lên xuống mới nhìn rất hãi. Tôi làm thơ, anh cũng biết và thường hay trao đổi với tôi mỗi khi rảnh việc. Anh khe khắt, băm bổ nhận xét. Thơ chú còn non, chủ yếu là thơ ghép vần, đọc cho vui, mất thời gian, mất công sức dông dài khoe mẽ, gặp đâu nói đấy. Nhiều khi anh bốp chát, thẳng thắn quá khiến tôi phật lòng. Tận trong thâm tâm, tôi vẫn nghĩ anh nói đúng nhưng sao nghe khó chịu hệt người đang ốm phải nhận những viên thuốc đắng ngắt. Hình như có chùm gai trong mỗi lời nhận xét của anh. Mấy năm trước, anh về quê sau ngày vết thương tái phát, không còn sức làm mỏ nữa. Từ đó, tôi cũng chả gặp anh. In xong tập thơ, nhận lời khen như mưa táp, tôi khấp khởi mừng. Tuy không bán được tập nào nhưng mang cho tặng khá nhiều. Ai cũng hồ hởi. Người khen bìa in đẹp. Kẻ mong được đọc như cầu nắng sau những trận mưa dầm lê thê. Tôi mang hơn ba chục tập về quê, phân phát cho bà con anh em xóm giềng. Ai cũng tôn trọng. Họ nhao nhao hỏi xem tôi được những quyền lợi gì sau khi ra sách. Tôi thoải mái vẽ lên những chân trời mơ ước. những sắc cầu vồng rực rỡ. Cho đến một hôm, tôi tìm tới nhà anh. Anh đang cắm cúi cầm chép (một loại dụng cụ dùng xới đất lật cỏ nhẹ nhàng ở quê tôi) bên những luống hoa. Thấy tôi sang, anh dừng lại, hào hứng dẫn tôi vào nhà. Sau vài ba câu thăm hỏi tình hình, tôi hãnh diện đưa tập thơ mới in của mình ra, viết viết ký ký tặng anh. Anh cũng mừng, cầm cuốn thơ lên, xem xem, lật giở mấy trang đầu. - Em cố gắng mới ra được tập thơ này. Cũng còn nhiều thiếu sót, em biết vậy. Tặng anh khi nào rỗi rãi đọc và cho em biết ý kiến! Anh với với tay, đặt tập sách của tôi vừa tặng lên nóc chiếc tủ đứng: - Tôi đọc rồi! Nói thật! Thơ của chú còn kém nhiều mặt. Câu chữ lòng thòng, dôi lời. - Anh đọc? - Tôi vừa đọc xong! Cần gì phải đọc hết. Qua lời giới thiệu của Lê Tử Dũng là đủ. Nhà thơ có danh này, tôi biết. Ông ta vẫn bán tiết canh lòng lợn ở chợ Cẩm Trung chứ gì, tin cậy được. Đọc những dẫn chứng của ông ta, tôi tin đó là những câu hay nhất trong tập. Ngay những câu như thế, tôi đã nhận ra. Thơ chú còn loãng nhạt. Thôi. Cố gắng làm lụng, dè xẻn tiết kiệm mà làm tập thơ sau cho tốt hơn. Tôi lặng lẽ về sau khi dằng dai một vài câu cho đỡ nhái. Ý kiến của một người dù có xác đáng, chân thực cũng bằng sao được số đông. Kệ người ta. Chỉ phán là giỏi. Có tài cứ làm ra thơ xem nào! Năm sau, tôi ra tập thơ thứ hai dày dặn. Bạn bè khen nức nở. Một tờ báo địa phương còn giới thiệu trang trọng ở cuối trang 3 trong tờ báo khổ rộng 4 trang. Tôi khấp khởi mừng, tìm mua hơn hai chục tờ để tặng cho những bạn bè ở xa. Vì thế, tôi mang đến nhà anh trong một kỳ nghỉ phép. Anh gạt tờ báo sang một bên. Lật giở trang cuối tập sách rồi thủng thẳng: - Một trăm bốn mươi bài. Năm nay chú bốn tám. Tập đầu chín mươi sáu bài. Như thế, chú làm một năm còn hơn bốn mươi bảy năm. Thơ thế thì hay thế nào được? Tôi ngượng chín người. May chung quanh không có ai, tôi thẽ thọt: - Vâng! Mong anh cứ xem cho em! Tôi trở lại vùng than. Vẫn làm thơ trong lúc công việc chuyên môn bề bộn. Chục năm sau, cuối cùng cũng có tập thơ thứ ba. Dày cộp, bìa cứng, in trên giấy hoa tiên bóng đẹp. Lần này, báo chí tiếp tục ngợi ca. Tờ báo địa phương, tờ báo ngành trong bài nhận xét lại còn in giới thiệu cả bìa sách. Nhân một cuộc thi thơ ở huyện, tôi tham gia luôn. Nghe đâu ban giám khảo được chọn từ đâu về, có vẻ thích và định trao cho giải khuyến khích. Tôi khoái lắm, tặng bạn bè, không nói gì về chất lượng. Ba tập thơ. Cả một núi công sức chứ có xoàng đâu? Rồi lại phải gặp anh. Trông anh đã khắc khổ, già nua hơn những lần gặp trước. Anh đỡ tập sách, nâng nâng hạ hạ như người đang ước lượng cân cá, cân thịt ngoài chợ: - Chà chà! Nặng! Dễ đến hơn cân ấy nhỉ? - Dạ! Cân hai đấy ạ! - Ờ! Thế chú hết bao nhiêu? - Cả chi phí đi lại, em mất đúng hai mươi triệu? - Nếu mang bán cho bà gói xôi chắc cũng được hai trăm ngàn? - Sao…? - Tập thơ này có tám mươi bài. Trung bình sơ sơ mỗi bài mười lăm gam. Chú in xong lại mang cho từng người chứ có bán được đồng nào đâu? Cả một bọn lau chau xúm lại khen nhau chứ biết thế nào là thơ. Làm như thế chỉ có kéo tụt thơ xuống thì có chứ vinh danh vinh dự gì? Tốt nhất bán cho người gói xôi, cho đồng nát. Vừa đỡ mất công, may ra cũng gỡ gạc được tý vốn. Thôi! Chú cứ về đọc đi đọc lại, cân nhắc kỹ chọn mười, hai mươi lấy một rồi hãy in. Tôi sợ rằng sau này, con cháu đọc, nó không hiểu tại sao cha ông nó dở hơi, viết những bài thơ chẳng ra thơ, vè chẳng ra vè. Cứ lủng cà lủng củng thế này. Chả biết tránh mặt vào đâu, tôi ậm ừ cho qua chuyện rồi tìm cách lảng. Anh bảo: - Dạo này anh cũng yếu, chả biết trời cho bao nhiêu nữa. Tối nay nếu rỗi, chú sang ngủ với anh một đêm. Bận thì thôi, dịp khác. - Có việc gì không anh? - Ta tâm tình với nhau tí chút. Lâu ngày xa các chú, anh chẳng rõ tình hình tầng mỏ thế nào? Bạn bầu anh em ra sao? Đêm ấy, tôi ngủ lại nhà anh. Hai người chuyện trò đến thật khuya. Tôi tế nhị, không nhắc gì đến thơ thẩn nữa. Chính anh lại là người chủ động bàn bạc. Làm thơ là xông vào cuộc sống thu thập chọn lọc, chưng cất lên để thành hương chứ thơ trong vòng khói thuốc bọt bia tưởng sóng gió bão táp, hai ba đêm quá giấc ngỡ cuộc đời tràn ngập mất mát lớn lao, nghe phải mấy câu trái tai đã xửng cồ căm giận nghĩ trước mặt mình là giặc thì hỏng. Không đổ mồ hôi, không sôi nước mắt mà đòi có lâu đài nghệ thuật là điều nằm mơ, loạn thần kinh. Thơ phải đọc kỹ, sửa chữa những chỗ vụng về, cắt bỏ những đoạn mình cho là dở mà còn tiếc rẻ. Xén như cầm dao cứa vào thân thể mình cơ. Thơ sâu như mạch ngầm, rộng như đại ngàn, bí mật như lòng biển càng khai thác càng thấy chưa với tới thì mới là thơ. Nhiều lúc cao trào, giọng anh vang vang. Bà vợ nằm gian bên trở dậy, nhắc mấy lần. Anh đừng nói chuyện khuya. Ốm đau thế, thức nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe. Như được trang bị kiến thức từ những dẫn chứng trong từng bài viết, tôi thấy mình lớn lên sau lời dạy bảo của anh. Thơ là sự lao động nhọc nhằn mà người đọc không thấy sự nhọc nhằn ấy mới thú. Năm năm sau, tôi về quê. Làng xóm đã thay đổi. Phố lấn làng, làng chen phố. Cửa nhà mọc lên không rõ dấu tích mồ mả cha ông nơi nào. Hàng hóa nhiều, ê hề suốt những ngõ hẹp. Người quen cũng giả bộ chẳng nhận ra nhau. Tôi mang theo tập bản thảo mà mình đã chắt lọc từ ba tập thơ trước. Rút gọn, cắt tỉa, chặt chém từng đoạn dài. Tập thơ chỉ còn vẻn vẹn ba mươi bảy bài. Ghé vào thăm anh. Anh đã mất sắp qua 49 ngày. Trên ban thờ khói hương nghi ngút. Tôi thắp hương khấn anh: - Anh ơi! Em về không kịp nữa rồi. Biết thế này, em đến sớm hơn thì anh em ta thêm một đêm đàm đạo với nhau. Chị vợ anh chờ tôi khấn khứa xong, mời ra bàn uống nước. Chị bảo: - Trước mấy hôm anh mất, vẫn nhắc tới chú. Anh dặn phải trao tận tay chú mấy cuốn sách này! Tôi nâng gói giấy, lật ra. Mặc dù nhàu nát vẫn nhận ra đó là mấy tập thơ của mình. Lật vài trang, tôi thật sự kinh hoàng khi thấy dấu vết bàn tay anh gạch xóa, chữa bỏ hàng loạt trên tập thơ ấy. Điều lạ lùng là những chỗ anh chữa sửa, cắt bỏ hầu như trùng với những gì tôi đã chép trên tập bản thảo mới. Lặng lẽ giở từng trang từ đầu đến cuối. Mắt tôi nhòe nhoẹt nước. Tôi lại đến bàn thờ anh. Rút ba cây hương, tôi run run đốt rồi quỳ xuống: - Thầy ơi!... Nhà văn Trần Tâm