Đề xuất cấm xuất cảnh cá nhân, chủ hộ kinh doanh nợ thuế Lãnh đạo doanh nghiệp bị cấm xuất cảnh vì nợ thuế, kể cả với số tiền nhỏ Bị hoãn xuất cảnh vì nợ thuế - tiếng kêu của doanh nghiệp |
Quy định tạm hoãn xuất cảnh đối với người nợ thuế: Góc nhìn từ ngành thuế |
Trong bối cảnh chính sách thuế Việt Nam ngày càng chặt chẽ, quy định tạm hoãn xuất cảnh đối với người nợ thuế đã trở thành một biện pháp quan trọng trong việc bảo vệ nguồn thu ngân sách quốc gia. Ông Đặng Ngọc Minh, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Thuế, đã chia sẻ với báo chí những góc nhìn từ cơ quan thực thi pháp luật thuế, đặc biệt liên quan đến những tranh cãi về tính hợp lý của biện pháp này.
Theo ông Minh, quy định về tạm hoãn xuất cảnh đối với người nợ thuế đã được áp dụng từ nhiều năm qua, đặc biệt là trong các bộ luật như Luật Quản lý thuế 2020 và Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, có hiệu lực từ tháng 7/2020.
Điều 66 Luật Quản lý thuế quy định: “Người nộp thuế thuộc trường hợp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh”.
Khoản 5 Điều 36 Luật Xuất nhập cảnh quy định: “Người nộp thuế, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài trước khi xuất cảnh chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật về quản lý thuế”.
Điểm đáng chú ý là pháp luật không quy định rõ ràng về mức nợ thuế nhỏ hay lớn. Điều này có nghĩa là chỉ cần người nộp thuế có khoản nợ kéo dài quá 90 ngày thì đều có thể bị áp dụng biện pháp cưỡng chế, bao gồm cả việc tạm hoãn xuất cảnh.
Đối với các pháp nhân chưa hoàn thành nghĩa vụ thuế, người đại diện pháp luật của doanh nghiệp cũng có thể bị tạm hoãn xuất cảnh cho đến khi doanh nghiệp hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế. Đây là một điểm gây tranh cãi, bởi nhiều giám đốc doanh nghiệp chỉ là người điều hành thuê, không sở hữu thực tế công ty. Tuy nhiên, ông Minh nhấn mạnh rằng, luật đã quy định rõ ràng: cá nhân chịu trách nhiệm đại diện và điều hành pháp nhân phải gánh trách nhiệm về các khoản nợ thuế của pháp nhân.
Năm 2024, số lượng các thông báo tạm hoãn xuất cảnh đã tăng đáng kể so với năm trước. Tính từ đầu năm 2023 đến tháng 8/2024, cơ quan thuế đã ban hành 17.952 thông báo tạm hoãn xuất cảnh với tổng số nợ thuế lên tới 30.388 tỷ đồng. Trong số này, 10.829 trường hợp là người nộp thuế đã bỏ địa chỉ kinh doanh, với khoản nợ hơn 6.894 tỷ đồng. Số lượng này vượt xa so với năm 2023 khi chỉ có 2.411 trường hợp bị tạm hoãn xuất cảnh với tổng nợ thuế là 6.719 tỷ đồng.
Ông Minh cho biết, sự gia tăng này chủ yếu do Tổng cục Thuế chỉ đạo các cục thuế tập trung xử lý các trường hợp cố tình né tránh nghĩa vụ thuế, đặc biệt là những doanh nghiệp bỏ địa chỉ kinh doanh. Điều này cho thấy nỗ lực của ngành thuế trong việc đảm bảo tính công bằng và nghiêm túc trong thực hiện pháp luật, đồng thời bảo vệ nguồn thu cho ngân sách quốc gia.
Tuy nhiên, ông Minh cho rằng, số liệu cũng cho thấy sự hạn chế trong hiệu quả thu hồi nợ từ biện pháp này. Chỉ 21,8% trong số 6.539 trường hợp bị tạm hoãn xuất cảnh đã nộp thuế. Điều này đặt ra câu hỏi về tính hiệu quả của biện pháp tạm hoãn xuất cảnh, khi vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp và cá nhân chưa thực hiện nghĩa vụ thuế dù bị áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Vậy tạm hoãn xuất cảnh có phải là giải pháp mạnh hay không? Nhiều ý kiến cho rằng tạm hoãn xuất cảnh là một biện pháp mạnh, tuy nhiên ông Minh lại nhấn mạnh rằng đây không phải là biện pháp mạnh nhất trong số các biện pháp cưỡng chế thuế. Thực tế, các biện pháp cưỡng chế khác như ngừng sử dụng hóa đơn hoặc thu hồi giấy phép kinh doanh còn mang lại hiệu quả tức thì hơn. Đặc biệt, biện pháp ngừng sử dụng hóa đơn được áp dụng rộng rãi và có tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, buộc họ phải tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế nhanh chóng hơn.
Ông Minh thông tin thêm, trong bối cảnh công nghệ phát triển, ngành thuế đã và đang áp dụng nhiều giải pháp công nghệ mới để tăng cường hiệu quả trong quản lý và thu nợ thuế. Các công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI) được đưa vào để hỗ trợ cán bộ thuế trong quy trình nghiệp vụ, giúp thực hiện các biện pháp cưỡng chế đúng thời hạn, qua đó nâng cao hiệu quả thu hồi nợ thuế.
Đặc biệt, trong những trường hợp khó khăn do thiên tai hay dịch bệnh, cơ quan thuế đã linh hoạt áp dụng các biện pháp giãn, hoãn hoặc miễn giảm thuế để tạo điều kiện cho doanh nghiệp và cá nhân vượt qua khó khăn.