Một trong những lợi ích nổi bật của kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp là khả năng tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên. Thay vì lãng phí nguồn lực như đất, nước và phân bón, mô hình này khuyến khích việc tái chế và sử dụng lại tài nguyên. Ví dụ, các chất thải nông nghiệp như rơm rạ và phân chuồng có thể được sử dụng để làm phân bón hữu cơ, giảm nhu cầu sử dụng phân hóa học và bảo vệ đất.
Kinh tế tuần hoàn cũng giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Bằng cách xử lý chất thải nông nghiệp và chuyển đổi chúng thành sản phẩm có giá trị, mô hình này giúp giảm lượng rác thải và khí thải độc hại ra môi trường. Điều này không chỉ cải thiện chất lượng đất và nước mà còn giảm thiểu sự phát thải khí nhà kính, góp phần vào việc chống biến đổi khí hậu.
Ngoài ra, việc ứng dụng các phương pháp nông nghiệp tuần hoàn có thể nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất. Sử dụng công nghệ sinh học và kỹ thuật canh tác thông minh giúp cải thiện sức khỏe cây trồng và tăng cường khả năng chống chịu với sâu bệnh và điều kiện thời tiết bất lợi. Điều này dẫn đến việc tăng cường sản lượng và chất lượng nông sản, từ đó cải thiện thu nhập cho nông dân.
Hơn nữa, kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp còn thúc đẩy đổi mới và phát triển kinh tế. Việc áp dụng các công nghệ và phương pháp mới không chỉ tạo ra các sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao mà còn mở ra cơ hội kinh doanh mới. Các doanh nghiệp và nhà đầu tư có thể tìm kiếm các giải pháp sáng tạo để cải thiện quy trình sản xuất và phân phối, tạo ra động lực cho sự phát triển của ngành nông nghiệp.
Cuối cùng, kinh tế tuần hoàn giúp tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của nền nông nghiệp. Bằng cách tích hợp các nguyên tắc của mô hình này vào chiến lược phát triển nông nghiệp, Việt Nam có thể xây dựng một hệ thống sản xuất nông nghiệp không chỉ đáp ứng nhu cầu hiện tại mà còn bảo vệ và duy trì tài nguyên cho thế hệ tương lai.
Ngành nông nghiệp Việt Nam hiện có khoảng 156,8 triệu tấn phụ phẩm mỗi năm. Trong đó, lúa có khoảng 47 triệu tấn rơm rạ, 8,6 triệu tấn tro trấu và 5,6 triệu tấn cám; tôm và cá tra lần lượt có 314.944 tấn và 994.000 tấn phụ phẩm. Phụ phẩm từ trái cây ước đạt 4,4 triệu tấn.
Những phụ phẩm này có thể được chuyển đổi thành các sản phẩm giá trị cao như phân bón sinh học, thức ăn chăn nuôi, và năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, tỷ lệ thu gom và tái chế phụ phẩm còn thấp: 52,2% cho nông nghiệp trồng trọt, 75,1% cho chăn nuôi, 50,2% cho lâm nghiệp và 90% cho thủy sản.
Trong một sự kiện của ngành nông nghiệp, bà Nguyễn Giang Thu, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ môi trường cho rằng, kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp Việt Nam chưa khai thác hết tiềm năng. Việc tái chế phụ phẩm còn hạn chế, khiến lượng lớn phụ phẩm bị lãng phí và gây ô nhiễm môi trường. Năng lực ứng dụng công nghệ và sự kết nối giữa các tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp còn yếu.
Cũng tại đây, TS. Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Việt Nam, đề xuất cần xây dựng hành lang pháp lý và cơ chế khuyến khích cho kinh tế tuần hoàn, giống như các ưu đãi cho công nghệ cao. Hỗ trợ khởi nghiệp và thí điểm quỹ đầu tư cho nông nghiệp xanh và tuần hoàn cũng là các giải pháp quan trọng. Đồng thời, cần thúc đẩy liên kết giữa khoa học, công nghệ và doanh nghiệp, tăng cường hợp tác quốc tế và đào tạo để nâng cao năng lực và ứng dụng công nghệ tuần hoàn.
Phan Chính