Tiềm năng thị trường Halal – Chìa khóa thành công cho doanh nghiệp Việt Nam đang ở đâu trong thị trường Halal toàn cầu? |
Triển vọng phát triển ngành Halal
Thị trường Halal đang dần trở thành một động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Sở dĩ không chỉ bởi quy mô và tốc độ tăng trưởng dân số các nước Hồi giáo mà còn bởi sản phẩm Halal tuân thủ quy định sản xuất nghiêm ngặt, sản phẩm tạo ra sạch và có trách nhiệm xã hội, trách nhiệm môi trường. Đó cũng là sản phẩm đang được người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn hiện nay.
![]() |
Đại biểu tham quan trưng bày giới thiệu sản phẩm Halal của các doanh nghiệp Việt Nam tại Tuần lễ Halal Week |
Việc Chính phủ đã xây dựng định hướng chiến lược về phát triển ngành Halal đến năm 2030, trong đó có Đề án về "Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030"; thành lập Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia, hoàn thiện các quy định pháp lý và tiêu chuẩn về Halal quốc gia… cho thấy Việt Nam đã rất quan tâm phát triển ngành Halal.
Tại Hội nghị giao ban xúc tiến thương mại với hệ thống thương vụ Việt Nam ở nước ngoài diễn ra không lâu, lãnh đạo Bộ Công Thương đã đưa ra dự báo, với tỷ trọng toàn thị trường trị giá 2 nghìn tỷ USD, chúng ta chỉ cần chiếm thị phần 10% cũng đã mang lại giá trị rất lớn. Nếu phấn đấu trong vòng 5 năm với tốc độ tăng trưởng hiện nay, xuất khẩu của Việt Nam hoàn toàn có thể chiếm tỷ trọng cao trong thị trường Halal toàn cầu.
Mặc dù mới bước đầu tiếp cận thị trường Halal, tuy nhiên Việt Nam cũng được đánh giá là quốc gia có tiềm năng và triển vọng phát triển ngành Halal, nhất là đối với các sản phẩm nông sản, thủy sản có thế mạnh. Hiện nay, nhiều quốc gia Hồi giáo là các thị trường tiêu dùng hoặc xuất khẩu sản phẩm Halal lớn trên thế giới như Hàn Quốc, Ả Rập Xê út, Indonesia, Malaysia… đang rất quan tâm, mong muốn thúc đẩy hợp tác với Việt Nam trong đầu tư, phát triển sản xuất các sản phẩm Halal, hình thành một ngành công nghiệp Halal để phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Thế nhưng, dù tiềm năng lớn và được đánh giá là quốc gia có tiềm năng và triển vọng phát triển ngành Halal nhưng tại sao số doanh nghiệp tiếp cận còn hạn chế? Việt Nam hiện vẫn chưa có tên trong danh sách 20-30 nước cung cấp thực phẩm Halal toàn cầu.
Doanh nghiệp cần làm gì?
Chia sẻ tại nhiều hội thảo gần đây, một số thách thức được chuyên gia chỉ ra khi tiếp cận thị trường này, đó là: Hiểu biết về các quy định của hồi giáo và các tiêu chuẩn Halal ở Việt Nam, ngay cả trong cộng đồng doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Quy trình chứng nhận Halal tại Việt Nam hiện nay còn phức tạp và thiếu sự hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế.
Cùng đó, chi phí cao đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư vào các dây chuyền sản xuất, thiết bị chuyên dụng, nguồn nguyên liệu an toàn và tuân theo các tiêu chuẩn Halal; thiếu vắng hệ sinh thái Halal đầy đủ (gồm sản xuất, dịch vụ, hạ tầng cơ sở và hỗ trợ của Nhà nước) để phát triển ngành Halal bền vững.
![]() |
Hợp tác xã Hà Nội Xanh giới thiệu các sản phẩm vào thị trường Halal |
Chia sẻ thực tế từ doanh nghiệp, bà Bá Thị Nguyệt Thu – Chủ tịch HĐQT Hợp tác xã Hà Nội Xanh – cho biết, thị trường Halal, đặc biệt là người tiêu dùng Hồi giáo rất quan tâm đến các tiêu chí như an toàn, đạo đức và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Đây là lợi thế của các doanh nghiệp và hợp tác xã nhỏ có thể tận dụng. Các doanh nghiệp lớn thường khó kiểm soát chặt chẽ chuỗi cung ứng, trong khi mô hình nhỏ có thể quản lý tốt hơn từ khâu sản xuất đến chế biến.
Kinh nghiệm của Hợp tác xã Hà Nội Xanh trong tiếp cận thị trường Halal là: Tập trung nghiên cứu thị trường Halal, đặc biệt là nhu cầu và hành vi của người tiêu dùng Hồi giáo, trước khi đưa sản phẩm ra thị trường. Hợp tác xã đã đầu tư xây dựng chuỗi giá trị khép kín, từ sản xuất đến chế biến và thương mại, đáp ứng các tiêu chuẩn về an toàn, truy xuất nguồn gốc. Hợp tác xã đã được cấp các chứng nhận uy tín như Halal, ISO 22000 để tăng độ tin cậy của sản phẩm trên thị trường Halal.
Các bước cơ bản để Hợp tác xã Hà Nội Xanh tiếp cận thị trường Halal, đó là: Lựa chọn sản phẩm phù hợp, sản phẩm phải rõ ràng, được sản xuất theo quy trình chuẩn; chuẩn hóa quy trình sản xuất, đảm bảo cơ sở vật chất, thiết bị, quy trình sản xuất và kiểm soát chất lượng; đáp ứng các tiêu chuẩn và chứng nhận như Halal, ISO, an toàn thực phẩm; xúc tiến thương mại và tiếp thị bằng việc tham gia các sự kiện, triển lãm, kết nối với đối tác.
“Tuy nhiên, ở Việt Nam cũng chưa có những triển lãm, hỗ trợ xúc tiến thương mại quốc tế chuyên ngành về Halal, tôi mong rằng trong thời gian tới các bộ, ban, ngành, Chính phủ sẽ tổ chức nhiều hoạt động liên quan đến xúc tiến thực tế. Ở đây chúng ta phải xúc tiến thực tế, bởi vì bản thân chúng tôi tiếp rất nhiều doanh nghiệp từ các quốc gia Hồi giáo đến và tham quan trực tiếp nhà máy, cũng như là tham quan trực tiếp ở vùng trồng. Họ nhìn thấy thực tế như vậy thì việc đơn hàng mới dễ dàng…”, bà Bá Thị Nguyệt Thu chia sẻ.
Đồng quan điểm với bà Thu nhiều ý kiến bày tỏ, các cơ quan quản lý Nhà nước cần “bắt tay” cùng cộng đồng doanh nghiệp triển khai hiệu quả Đề án “Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030”.
Bên cạnh đó, có biện pháp nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp, chính phủ, địa phương tại Việt Nam về tiềm năng của thị trường Halal. Đẩy mạnh ngoại giao kinh tế và xúc tiến thương mại với các nước Hồi giáo, nghiên cứu ký kết hiệp định thương mại tự do mới giữa Việt Nam và các thị trường Halal tiềm năng, tận dụng lợi thế từ các hiệp định khu vực...