Thứ bảy 15/11/2025 12:40
Hotline: 024.355.63.010
Thời cuộc

Doanh nghiệp Việt cần làm gì để ứng phó hiệu quả với các rào cản phi thuế quan ?

Dù hầu hết hàng hóa xuất khẩu sang thị trường ASEAN đều được hưởng ưu đãi với mức thuế quan 0%, nhiều doanh nghiệp Việt vẫn gặp khó khi xuất khẩu nông sản, thủy sản và hàng tiêu dùng do vướng rào cản phi thuế quan.
Doanh nghiệp Việt cần làm gì để ứng phó hiệu quả với các rào cản phi thuế quan ?
Phiên thảo luận tại Hội thảo “Gỡ rào cản phi thuế quan vì thịnh vượng chung ASEAN”.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực ngày càng sâu rộng, các rào cản phi thuế quan (NTBs) đang nổi lên như một thách thức đáng kể đối với doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực nông sản, thủy sản và hàng tiêu dùng nhanh (FMCG).

Thị trường ASEAN: Cơ hội nhưng không ít thách thức

Chia sẻ tại Hội thảo “Gỡ rào cản phi thuế quan vì thịnh vượng chung ASEAN” tổ chức mới đây, ông Tô Việt Châu - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường - nhấn mạnh: “ASEAN là thị trường giàu tiềm năng cho xuất khẩu nông lâm thủy sản Việt Nam. Với mức thuế quan ưu đãi 0% theo Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), cùng với vị trí địa lý thuận lợi, đây là thị trường lý tưởng để doanh nghiệp giảm chi phí logistics và tăng sức cạnh tranh".

Cũng theo ông Châu, Việt Nam hiện còn nhiều tiềm năng xuất khẩu sản phẩm nông lâm thủy sản vào thị trường ASEAN, do có các lợi thế lớn như thuận lợi về mặt địa lý giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hóa, chi phí lưu kho bãi, nhất là trong bối cảnh các chi phí logistics đi các khu vực thị trường Mỹ, châu Âu... ngày càng tăng cao, thì ưu tiên xuất khẩu sang các thị trường gần gũi nhằm tăng sức cạnh tranh cho nông sản là lựa chọn hợp lý của nhiều doanh nghiệp. Đối với khu vực thị trường này, doanh nghiệp cũng có nhiều lựa chọn phương thức vận chuyển hàng hóa như vận tải đường bộ, đường biển và đường hàng không, tạo sự linh hoạt trong giao thương, đưa hàng hóa đến với đối tác nhanh chóng và bảo đảm chất lượng.

Tuy nhiên, ông Châu cũng thừa nhận những yêu cầu khắt khe ngày càng gia tăng từ phía các nước nhập khẩu. Các mặt hàng chủ lực như gạo, rau quả, thủy sản, cà phê, hạt tiêu hay gỗ cần đảm bảo chất lượng cao, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng và phải khác biệt giữa sự tương đồng với sản phẩm của các nước trong khu vực. “Đây là lúc doanh nghiệp Việt cần tập trung vào xây dựng thương hiệu, nâng cao năng lực chế biến, và đa dạng hóa sản phẩm nếu muốn trụ vững tại ASEAN”, ông nói.

 ông Tô Việt Châu, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường
ông Tô Việt Châu - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường

Về mặt thể chế, ông Châu cho biết, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao để tuyên truyền cam kết thuế quan, thúc đẩy xúc tiến thương mại và tháo gỡ các rào cản kỹ thuật thông qua đàm phán song phương.

Đặc biệt, ông cho rằng, việc tận dụng các hiệp định khu vực như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) sẽ mở ra cơ hội hợp tác sâu rộng với các đối tác, không chỉ về thương mại mà cả trong đào tạo, công nghệ chế biến và giám sát an toàn thực phẩm. “Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẵn sàng đóng vai trò kết nối để đưa hợp tác nông nghiệp song phương đi vào chiều sâu, hiệu quả và bền vững,” ông khẳng định.

Rào cản phi thuế quan gây khó khăn cho việc xuất khẩu thuỷ sản

Ở góc độ ngành thủy sản, bà Lê Hằng - Phó Tổng Thư ký Hiệp hội VASEP chỉ rõ nhiều rào cản phi thuế quan đang kìm hãm đà tăng trưởng xuất khẩu trong khu vực ASEAN. Các biện pháp như kiểm dịch động thực vật (SPS), rào cản kỹ thuật (TBT), giấy phép nhập khẩu và chứng nhận Halal đều yêu cầu chi phí và thời gian tuân thủ rất cao, đặc biệt đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Bà Hằng chỉ ra, một xét nghiệm dư lượng kháng sinh trong tôm có thể tốn 100-500 USD/mẫu. Việc tuân thủ thường yêu cầu đầu tư vào các cơ sở chế biến, như kho lạnh hoặc hệ thống truy xuất nguồn gốc, có thể tốn từ 10.000-100.000 USD hoặc hơn để nâng cấp đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs).

Ngoài ra, quy định còn tác động đến thời gian. Kiểm tra kiểm dịch tại cảng có thể làm chậm lô hàng từ 1-7 ngày, tùy thuộc vào quốc gia và hiệu quả của cơ quan địa phương. Ví dụ, Bộ Thủy sản Malaysia có thể mất 3-5 ngày để xử lý kiểm tra đối với thủy sản nhập khẩu. Nếu lô hàng không đạt kiểm tra SPS ban đầu, việc xét nghiệm lại hoặc bị từ chối có thể kéo dài thời gian hàng tuần, làm gián đoạn chuỗi cung ứng và dẫn đến hư hỏng thủy sản dễ hỏng.

"Đầu tư truy xuất nguồn gốc, nhãn mác phù hợp ngôn ngữ địa phương hay tuân thủ chứng nhận Halal có thể khiến chi phí ban đầu tăng lên tới hàng chục ngàn USD, chưa kể nguy cơ bị trả hàng nếu không đạt chuẩn”, Bà Hằng dẫn chứng.

bà Lê Hằng, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội VASEP
Bà Lê Hằng - Phó Tổng Thư ký Hiệp hội VASEP

Trong bối cảnh các rào cản phi thuế quan ngày càng gia tăng phức tạp, đại diện VASEP cho rằng, việc cải thiện chính sách nội địa và nâng cao năng lực thương lượng là điều cấp thiết nhằm giảm thiểu rủi ro, đặc biệt trong xuất khẩu thủy sản sang thị trường ASEAN.

Một trong những đề xuất quan trọng là cần hài hòa hóa và chuẩn hóa quy trình tuân thủ các quy định về kiểm dịch động thực vật, rào cản kỹ thuật thương mại và chứng nhận Halal. Bà Hằng chỉ ra các quy trình hiện tại đang yêu cầu hệ thống tài liệu, xét nghiệm và hạ tầng kỹ thuật phức tạp, khiến chi phí tuân thủ tăng cao và kéo dài thời gian xuất khẩu. Trong khi đó, Việt Nam vẫn thiếu các tiêu chuẩn thống nhất phù hợp với yêu cầu từ các quốc gia trong khu vực, dẫn đến việc doanh nghiệp phải chịu chi phí cao hơn để thích nghi riêng lẻ với từng thị trường.

Để khắc phục, VASEP đề xuất cần phát triển các tiêu chuẩn quốc gia đồng bộ và tương thích với các hướng dẫn khu vực như Hệ thống Tài liệu Đánh bắt ASEAN (ACDS) và quy định liên quan đến việc ngăn chặn nhập khẩu sản phẩm từ hoạt động đánh bắt bất hợp pháp (IUU). Việc chuẩn hóa các quy trình như chứng nhận y tế không chỉ giúp rút ngắn thời gian kiểm tra mà còn có thể giảm đáng kể chi phí xét nghiệm – vốn hiện dao động từ 100 đến 500 USD cho mỗi mẫu tôm.

Bên cạnh đó, việc đơn giản hóa quy trình chứng nhận nội địa, đặc biệt trong cấp giấy chứng nhận SPS và Halal cũng là một giải pháp quan trọng nhằm rút ngắn thời gian xử lý từ vài tháng xuống còn khoảng một đến hai tháng, giúp doanh nghiệp cải thiện tốc độ tiếp cận thị trường.

Trong khi đó, chứng nhận Halal đang trở thành một yêu cầu bắt buộc khi xuất khẩu sang các quốc gia có dân số Hồi giáo lớn như Indonesia và Malaysia - hai thị trường chủ lực trong ASEAN. Tuy nhiên, quá trình xin chứng nhận hiện nay gặp nhiều trở ngại vì thời gian kéo dài và chi phí tốn kém, phần lớn do Việt Nam chưa có cơ quan chứng nhận Halal được công nhận rộng rãi trong khu vực.

Trước thực trạng này, đại diện VASEP đề xuất thành lập một cơ quan chứng nhận Halal quốc gia, có thể được công nhận bởi các tổ chức uy tín như JAKIM (Malaysia) và MUI (Indonesia). Việc này sẽ giúp rút ngắn đáng kể thời gian xin chứng nhận, hiện kéo dài từ ba đến sáu tháng xuống chỉ còn một đến hai tháng, đồng thời giảm chi phí đáng kể cho doanh nghiệp.

Song song đó, cần triển khai chương trình đào tạo chuyên sâu và hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn Halal nghiêm ngặt. Hiện chi phí nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ sản xuất đạt chuẩn Halal có thể lên tới 100.000 USD – một khoản đầu tư không nhỏ đối với phần lớn doanh nghiệp thủy sản Việt Nam.

Không dừng lại ở cấp độ trong nước, VASEP cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác song phương, thông qua đàm phán với các nước trong khu vực để công nhận lẫn nhau chứng nhận Halal. Điều này không chỉ giúp tránh được tình trạng kiểm toán trùng lặp mà còn tạo thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam tiếp cận thị trường nhanh hơn, ít rào cản hơn.

Thông qua những đề xuất này, VASEP kỳ vọng có thể tạo ra bước chuyển thực chất trong việc tháo gỡ các rào cản phi thuế quan, từ đó thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu thủy sản nói riêng và nông sản nói chung của Việt Nam vào thị trường ASEAN ngày một vững chắc và hiệu quả hơn.

Doanh nghiệp tiêu dùng nhanh: Khi rào cản không chỉ đến từ chính sách

Ở góc nhìn từ dữ liệu thị trường, ông Nguyễn Anh Dũng - Giám đốc Quốc gia NielsenIQ tại Việt Nam, Philippines và Myanmar - cảnh báo, các doanh nghiệp trong lĩnh vực hàng tiêu dùng nhanh khi thâm nhập ASEAN không chỉ đối mặt với quy định kỹ thuật mà còn phải vượt qua rào cản văn hóa, hành vi và logistics phân phối.

“Cùng là ASEAN nhưng mỗi nước lại có tiêu chuẩn sản phẩm, quy định nhãn mác, thậm chí yêu cầu chứng nhận Halal riêng biệt. Một sản phẩm được chấp nhận ở Thái Lan chưa chắc hợp lệ tại Việt Nam nếu không điều chỉnh thành phần hoặc nhãn phụ”, ông Dũng phân tích.

Ngoài yếu tố pháp lý, doanh nghiệp còn phải giải bài toán hạ tầng phân phối thiếu đồng bộ và hành vi tiêu dùng khác biệt sâu sắc giữa các nước. “Khẩu vị, ngôn ngữ, niềm tin thương hiệu – tất cả đều tác động đến khả năng lan tỏa sản phẩm. Vì vậy, việc sử dụng dữ liệu tiêu dùng bản địa để định vị đúng sản phẩm, đúng thị trường là ‘chìa khóa sống còn’.”

Từ góc độ thị trường tiêu dùng nhanh, NielsenIQ chỉ ra rằng, khi lựa chọn thị trường đầu tư tại Đông Nam Á, doanh nghiệp không chỉ xem xét chi phí mà còn cả chính sách, nhân khẩu học và xu hướng tiêu dùng, đặc biệt là nhu cầu tiêu dùng. Người tiêu dùng hiện nay tìm kiếm "sức mua có định hướng", ưu tiên các sản phẩm có giá trị sử dụng thực sự và sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho những sản phẩm giúp tiết kiệm chi phí về lâu dài.

Các thương hiệu thành công là những thương hiệu cung cấp các lựa chọn thay thế với chi phí hợp lý nhưng vẫn giữ được lợi ích cốt lõi, dịch chuyển trải nghiệm tiêu dùng về nhà, và tập trung vào lợi ích dài hạn, tiện lợi và sức khỏe. Điều này cho thấy, đổi mới thành công là đổi mới đúng nhu cầu chưa được đáp ứng của người tiêu dùng.

Tóm lại, để nâng cao vị thế và tăng cường xuất khẩu bền vững sang thị trường ASEAN, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực gỡ bỏ các rào cản phi thuế quan thông qua việc hài hòa hóa các quy định nội địa, tăng cường năng lực đàm phán quốc tế và hợp tác chặt chẽ với các đối tác. Đồng thời, về phía doanh nghiệp, cần nắm bắt và thích nghi với xu hướng tiêu dùng mới để đưa ra sản phẩm phù hợp, đảm bảo sức cạnh tranh trong chuỗi cung ứng khu vực.

Tin bài khác
Ngành hàng không xác lập 5 trụ cột chiến lược cho giai đoạn bứt phá

Ngành hàng không xác lập 5 trụ cột chiến lược cho giai đoạn bứt phá

Cục Hàng không Việt Nam vừa báo cáo Bộ Xây dựng về kết quả triển khai Chiến lược phát triển dịch vụ vận tải, trong đó xác định 5 trụ cột chiến lược nhằm đưa ngành hàng không bước vào giai đoạn tăng tốc và phát triển bền vững trong thời gian tới.
Miễn giấy phép xây dựng: ĐBQH cảnh báo nguy cơ “vỡ trận” hậu kiểm

Miễn giấy phép xây dựng: ĐBQH cảnh báo nguy cơ “vỡ trận” hậu kiểm

Quốc hội đang thảo luận dự thảo Luật Xây dựng (sửa đổi) theo hướng miễn giấy phép xây dựng với một số công trình để giảm “tiền kiểm”, tăng “hậu kiểm”.
Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn: Dự thảo Luật Thương mại điện tử (sửa đổi) chỉ còn 20 thủ tục

Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn: Dự thảo Luật Thương mại điện tử (sửa đổi) chỉ còn 20 thủ tục

Tại phiên thảo luận chiều 13/11, Chính phủ khẳng định định hướng cắt giảm tối đa thủ tục hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử, chuyển mạnh sang quản lý hậu kiểm và số hóa toàn bộ quy trình.
An Giang công khai 854 tàu không đủ điều kiện khai thác thủy sản

An Giang công khai 854 tàu không đủ điều kiện khai thác thủy sản

Chủ tịch UBND tỉnh An Giang cho biết, tỉnh hiện còn 865 tàu không đủ điều kiện hoạt động khai thác thủy sản. Đến nay, cơ quan chức năng tỉnh An Giang đã thành lập 10 tổ công tác đến từng tàu cá xác minh, hướng dẫn xử lý theo quy định của pháp luật.
Hà Nội đặt mục tiêu hoàn thành hạ tầng kỹ thuật 26 cụm công nghiệp trong năm 2026

Hà Nội đặt mục tiêu hoàn thành hạ tầng kỹ thuật 26 cụm công nghiệp trong năm 2026

UBND thành phố Hà Nội vừa ban hành kế hoạch quản lý và đầu tư phát triển cụm công nghiệp năm 2026, đặt mục tiêu hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật tại 26 cụm công nghiệp, đồng thời bảo đảm 100% cụm công nghiệp xây dựng mới có trạm xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng.
ĐBQH kiến nghị quy trình, tiêu chí thu hút nhân tài khu vực tư vào khu vực công

ĐBQH kiến nghị quy trình, tiêu chí thu hút nhân tài khu vực tư vào khu vực công

Sáng 13/11, trong phiên thảo luận tại hội trường về dự án Luật Viên chức (sửa đổi), đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà – Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ninh – bày tỏ sự đồng tình với chủ trương “mở cửa” thu hút nhân tài, song nhấn mạnh cần có quy định cụ thể, quy trình thẩm định chặt chẽ để tránh kẽ hở chính sách, bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng, khách quan trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
TP. Hồ Chí Minh hình thành 3 vùng phát triển, mở rộng hợp tác thu hút đầu tư quốc tế

TP. Hồ Chí Minh hình thành 3 vùng phát triển, mở rộng hợp tác thu hút đầu tư quốc tế

Ngày 13/11, tại Diễn đàn đối thoại cấp cao về quan hệ kinh tế ASEAN - Ý tổ chức ở phường Bình Dương (TP. Hồ Chí Minh), Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Được cho biết, sau hợp nhất, TP. Hồ Chí Minh đang định hình lại không gian phát triển với 3 vùng trọng điểm, 1 đặc khu, 3 hành lang và 5 trụ cột phát triển, hướng tới xây dựng đô thị hiện đại, năng động và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Quốc hội thông qua mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2026 từ 10% trở lên

Quốc hội thông qua mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2026 từ 10% trở lên

Sáng 13/11, với 90,51% đại biểu tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026, đặt mục tiêu tăng trưởng GDP đạt từ 10% trở lên và GDP bình quân đầu người đạt mức 5.400 - 5.500 USD.
Quốc hội ngày 13/11 thảo luận Luật Thương mại điện tử, siết chặt quản lý hoạt động livestream bán hàng

Quốc hội ngày 13/11 thảo luận Luật Thương mại điện tử, siết chặt quản lý hoạt động livestream bán hàng

Ngày 13/11, tiếp tục chương trình làm việc của Kỳ họp thứ 10, Quốc hội dành cả ngày để thảo luận và thông qua nhiều nội dung quan trọng.
Nghiên cứu cho phép bán khống chứng khoán

Nghiên cứu cho phép bán khống chứng khoán

Đây được đánh giá là bước đi quan trọng, phản ánh nỗ lực nâng cấp toàn diện hệ sinh thái tài chính quốc gia, đưa Việt Nam tiệm cận các chuẩn mực quốc tế.
Đồng Nai khởi công ba khu công nghiệp mới trong tháng 12, tạo động lực phát triển công nghiệp

Đồng Nai khởi công ba khu công nghiệp mới trong tháng 12, tạo động lực phát triển công nghiệp

Ngày 12/11, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Võ Tấn Đức chủ trì cuộc họp về tiến độ triển khai ba dự án khu công nghiệp gồm Long Đức 3, Bàu Cạn – Tân Hiệp và Xuân Quế – Sông Nhạn, với mục tiêu khởi công đồng loạt vào ngày 19/12/2025.
Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Danh Huy: Phát triển đường sắt là căn cơ chống ùn tắc đô thị

Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Danh Huy: Phát triển đường sắt là căn cơ chống ùn tắc đô thị

Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Danh Huy cho rằng, đường sắt là huyết mạch giao thông và giải pháp căn cơ nhất cho ùn tắc đô thị, kêu gọi hợp tác quốc tế tại Triển lãm VRT & CONS 2025.
Thủ tướng Chính phủ: Ưu tiên quỹ nhà, đất dôi dư sau sáp nhập cho giáo dục và y tế

Thủ tướng Chính phủ: Ưu tiên quỹ nhà, đất dôi dư sau sáp nhập cho giáo dục và y tế

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ban hành công điện yêu cầu các địa phương khẩn trương xử lý, sắp xếp lại quỹ nhà, đất dôi dư sau khi sáp nhập đơn vị hành chính. Trong đó, nhấn mạnh ưu tiên sử dụng cho lĩnh vực giáo dục, y tế và các công trình công cộng.
Hà Nội công bố danh sách 239 cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm

Hà Nội công bố danh sách 239 cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm

UBND TP. Hà Nội vừa ban hành quyết định phê duyệt danh sách 239 cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm trên địa bàn thành phố năm 2024.
Doanh nghiệp tư nhân lớn trở thành điểm sáng của tăng trưởng

Doanh nghiệp tư nhân lớn trở thành điểm sáng của tăng trưởng

Khu vực tư nhân đang trở thành điểm tựa mới của nền kinh tế, thể hiện vai trò tiên phong trong đổi mới, sáng tạo và hội nhập quốc tế.