Cơ hội từ các thị trường tỷ đô
Tại hội thảo “Phân tích cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường thuộc Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) và châu Âu (EU)” do Bộ Công Thương tổ chức ngày 11/11, TS. Bùi Duy Linh, Viện Kinh tế Kinh doanh Quốc tế (Đại học Ngoại thương Hà Nội), cho biết RCEP hiện là hiệp định thương mại tự do lớn nhất hành tinh, quy tụ 10 nước ASEAN cùng 5 đối tác gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand. Khối này chiếm gần 30% GDP toàn cầu, 1/3 dân số thế giới và hơn 12.700 tỷ USD kim ngạch thương mại mỗi năm.
Trong đó, Việt Nam nổi lên là một mắt xích năng động của khu vực, với xuất khẩu sang RCEP năm 2024 đạt 175 tỷ USD, chiếm 45% tổng kim ngạch. Dự kiến năm 2025, tỷ trọng này tiếp tục duy trì ở mức 44–46%, cho thấy khu vực này vẫn là “động cơ chính” của hàng Việt.
![]() |
| Khai thác “mỏ vàng” RCEP và EVFTA: Hàng Việt bứt phá trên bản đồ thương mại toàn cầu - Ảnh: TTXVN |
Song song đó, Liên minh châu Âu (EU) vẫn là thị trường có giá trị cao và ổn định cho hàng xuất khẩu Việt Nam. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu sang EU đạt khoảng 48 tỷ USD, tăng hơn 10% so với năm 2023. Trong 10 tháng đầu năm 2025, con số này dự kiến đạt 46,5–48,5 tỷ USD, tương đương 12–13% tổng kim ngạch xuất khẩu. Với lợi thế từ Hiệp định EVFTA, hàng hóa Việt đang ngày càng khẳng định năng lực cạnh tranh trong nhóm sản phẩm tiêu chuẩn cao như dệt may, nông sản chế biến, gỗ và thủ công mỹ nghệ.
Ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM, nhận định: “Đây là thời điểm thích hợp để doanh nghiệp Việt tăng cường liên kết khu vực, chủ động tham gia sâu vào chuỗi cung ứng nội khối và giảm phụ thuộc vào thị trường truyền thống. Việc chủ động chiến lược xuất khẩu không chỉ giúp doanh nghiệp nâng cao sức đề kháng mà còn tạo bước đệm cho giai đoạn tăng trưởng mới.”
Những tín hiệu tích cực này cho thấy Việt Nam đang dần khẳng định vai trò trung tâm trong chuỗi cung ứng khu vực, đồng thời mở rộng hành lang xuất khẩu sang các thị trường tỷ đô.
Thích ứng để bứt phá
Tuy nhiên, đi cùng cơ hội là không ít thách thức. Các chuyên gia nhận định doanh nghiệp Việt cần chủ động nâng cao năng lực đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường và thương mại bền vững mà các thị trường như RCEP hay EU đang đặt ra.
Trong khuôn khổ RCEP, mức giảm thuế giữa các quốc gia không đồng đều, có ngành được hưởng ưu đãi ngay, nhưng cũng có ngành phải chờ tới 20 năm. Còn tại EU, yêu cầu khắt khe về truy xuất nguồn gốc, phát thải carbon và tiêu chuẩn ESG đang buộc nhiều doanh nghiệp phải đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ, quản trị và quy trình sản xuất. Ông Nguyễn Ngọc Hòa nhấn mạnh: “Doanh nghiệp cần hiểu rõ quy tắc xuất xứ và lộ trình giảm thuế để tránh hiểu lầm. Ngoài ra, khả năng quản trị rủi ro, từ thẩm định đối tác, thanh toán quốc tế đến tuân thủ môi trường là điều kiện sống còn đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.”
Điểm sáng là RCEP cho phép áp dụng cơ chế cộng gộp xuất xứ, nghĩa là nguyên liệu từ bất kỳ nước thành viên nào cũng được tính là nội khối. Đây là cơ hội lớn để doanh nghiệp Việt tái cấu trúc chuỗi cung ứng, chủ động nguồn đầu vào, giảm chi phí nhập khẩu và tăng tính cạnh tranh.
Nhiều doanh nghiệp cho rằng đã đến lúc cần hình thành liên minh sản xuất trong nước, chia sẻ công nghệ, dữ liệu và tiêu chuẩn chất lượng. Khi chuỗi cung ứng nội địa đủ mạnh, Việt Nam có thể vừa đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định, vừa nâng cao năng lực đáp ứng đơn hàng quốc tế. Bên cạnh đó, chuyển đổi xanh và số hóa đang trở thành tiêu chí bắt buộc để duy trì thị phần. Doanh nghiệp phải chuẩn hóa quy trình sản xuất, sử dụng năng lượng tái tạo, vật liệu thân thiện môi trường và đảm bảo phát thải thấp. Nếu không kịp thích ứng, hàng Việt có nguy cơ bị loại khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thực tế, lãi suất vay cho sản xuất xanh ở Việt Nam vẫn cao hơn khu vực (5–7% so với 3–5%), khiến doanh nghiệp gặp khó khi tiếp cận nguồn vốn. Bộ Công Thương cho biết đang phối hợp với các tổ chức tài chính quốc tế để mở rộng các gói tín dụng ưu đãi hỗ trợ chuyển đổi công nghệ, đặc biệt trong các ngành xuất khẩu chủ lực. Ngoài ra, Bộ cũng yêu cầu hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài thường xuyên cập nhật chính sách, cảnh báo rủi ro và cung cấp thông tin thị trường cho doanh nghiệp trong nước. Song song đó, việc khai thác nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới đang giúp hàng Việt mở rộng thị phần tới nhiều khu vực tiềm năng như Trung Đông, Nga, Australia và ASEAN.
Ông Bùi Huy Hoàng, Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển Thương mại điện tử và Công nghệ số, nhận định: “Doanh nghiệp Việt đang tận dụng tốt các nền tảng số để gia tăng hiện diện ở thị trường quốc tế. Điều này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn mở rộng kênh phân phối trực tiếp đến người tiêu dùng toàn cầu.”
Theo ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương), bộ đang xây dựng cổng thông tin GoGlobal và hệ sinh thái dữ liệu thương mại điện tử thông minh, cho phép doanh nghiệp đánh giá rủi ro, xếp hạng thị trường và kết nối đối tác theo thời gian thực. Khi minh bạch và chủ động chuyển đổi số, doanh nghiệp Việt có thể biến thách thức thành lợi thế cạnh tranh, từng bước nâng tầm vị thế trên thương trường quốc tế.
Khi tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại và công cụ số, doanh nghiệp Việt không chỉ mở rộng không gian xuất khẩu mà còn xây dựng thương hiệu quốc gia vững vàng, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.