![]() |
Ông Nguyễn Bá Hải - Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến đầu tư - Phát triển công thương, Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương). |
Phóng viên: Với xu hướng phát triển các khu công nghiệp thế hệ mới gắn với chuyển đổi xanh và tiêu chuẩn bền vững, theo ông, đâu là những yêu cầu “bắt buộc” mà DNVVN Việt Nam phải đáp ứng nếu muốn tham gia chuỗi cung ứng của các dự án FDI? khâu nào doanh nghiệp trong nước hiện đang yếu nhất?
Ông Nguyễn Bá Hải: Để tham gia sâu và bền vững vào chuỗi cung ứng của các dự án FDI, đặc biệt trong bối cảnh các khu công nghiệp thế hệ mới đang dịch chuyển theo hướng xanh, thông minh và bền vững, các DNVVN của Việt Nam cần đáp ứng một số yêu cầu gần như bắt buộc, bao gồm:
Thứ nhất, minh bạch về nguồn gốc và khả năng truy xuất xuất xứ sản phẩm. Đây là yêu cầu ngày càng chặt chẽ từ các thị trường phát triển nhằm kiểm soát rủi ro chuỗi cung ứng, tuân thủ các quy định về thương mại quốc tế, đặc biệt là để đáp ứng các tiêu chí về môi trường – xã hội – quản trị (ESG).
Thứ hai, áp dụng và tuân thủ hệ thống tiêu chuẩn quốc tế trong sản xuất như ISO 9001 (quản lý chất lượng), ISO 14001 (quản lý môi trường), ISO 45001 (an toàn lao động), IATF 16949 (lĩnh vực ô tô), HACCP/ISO 22000 (thực phẩm)… Đây là nền tảng để bảo đảm chất lượng ổn định, hạn chế rủi ro và đáp ứng yêu cầu khắt khe từ các tập đoàn đa quốc gia.
Thứ ba, triển khai các giải pháp giảm phát thải và sản xuất thân thiện môi trường, tiến tới đạt các chứng chỉ “xanh” cho sản phẩm và nhà máy, như Carbon Neutral, Ecolabel, hay các tiêu chuẩn ngành như OEKO-TEX (dệt may), EPEAT (điện tử), hoặc đáp ứng cơ chế CBAM của EU trong tương lai gần.
Thứ tư, đảm bảo năng lực thực hiện đơn hàng (Order Fulfillment Capability): Năng lực giao hàng đúng thời hạn, đúng chất lượng, yếu tố then chốt để trở thành nhà cung ứng tin cậy trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ năm, khả năng cải tiến, đổi mới sáng tạo: thay vì chỉ tham gia gia công đơn giản, doanh nghiệp cần hướng tới sản phẩm có hàm lượng công nghệ, thiết kế, hoặc tích hợp dịch vụ đi kèm để nâng cao giá trị gia tăng.
Thứ sáu, năng lực quản trị và minh bạch tài chính: các doanh nghiệp FDI ngày càng ưu tiên lựa chọn đối tác có hệ thống kế toán kiểm toán rõ ràng, có khả năng kiểm soát rủi ro và tuân thủ pháp luật địa phương.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh và trở thành mắt xích đáng tin cậy trong chuỗi giá trị toàn cầu, DNVVN không chỉ cần nỗ lực nâng cấp toàn diện về vận hành - công nghệ - quản trị, mà còn cần tư duy dài hạn về phát triển bền vững, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đồng thời, cần tận dụng tốt hơn các cơ chế hỗ trợ từ phía Chính phủ, các tổ chức xúc tiến thương mại và đầu tư, và mạng lưới chuyên gia trong và ngoài nước để rút ngắn quá trình chuyển đổi và từng bước hội nhập sâu vào hệ sinh thái FDI chất lượng cao.
Phóng viên: Từ những yêu cầu đó, thực tế cho thấy nhiều DNVVN vẫn “mù mờ” thông tin thị trường và khó tiếp cận kênh phân phối toàn cầu. Cục Xúc tiến thương mại sẽ triển khai những chiến lược hay công cụ mới nào để giúp họ chủ động “nói chuyện cùng ngôn ngữ” với thị trường quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh?
Ông Nguyễn Bá Hải: Để hỗ trợ DNVVN tiếp cận tốt hơn với kênh phân phối toàn cầu, Cục Xúc tiến thương mại đã và đang xây dựng Hệ sinh thái xúc tiến thương mại số, với mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận thông tin thị trường quốc tế cho DNVVN thông qua nền tảng số. Theo đó, chúng tôi đã xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu quản trị và xúc tiến thương mại, cho phép các Sở Công Thương, Trung tâm Xúc tiến thương mại địa phương, Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài và các hiệp hội ngành hàng cập nhật thông tin thị trường theo thời gian thực.
Hệ thống này giúp DNVVN tiếp cận thông tin về nhu cầu thị trường, tiêu chuẩn xuất khẩu và xu hướng tiêu dùng quốc tế. Đến năm 2030, mục tiêu là 100% tổ chức xúc tiến thương mại và hơn 200.000 doanh nghiệp được cấp tài khoản trên Hệ sinh thái xúc tiến thương mại số, với 50% trong số đó phát sinh giao dịch.
Cục Xúc tiến thương mại cũng đã liên kết với doanh nghiệp FDI để cung cấp Hệ thống dữ liệu về yêu cầu kỹ thuật và tiêu chuẩn của các tập đoàn FDI, giúp DNVVN điều chỉnh sản phẩm/dịch vụ để đáp ứng tiêu chí tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các dự án FDI.
Bên cạnh đó, các hội thảo trực tuyến trên nền tảng số được tổ chức định kỳ để kết nối DNVVN với các tập đoàn FDI, giúp doanh nghiệp hiểu rõ cách tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, từ sản xuất linh kiện đến cung ứng nguyên liệu.
Bên cạnh việc xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu, chúng tôi tăng cường hội chợ, triển lãm và giao thương quốc tế để tạo cơ hội cho DNVVN kết nối trực tiếp với nhà phân phối và đối tác chiến lược quốc tế; đào tạo và tư vấn chuyên sâu giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của DNVVN; tận dụng Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) để giảm chi phí thuế quan và mở rộng thị trường xuất khẩu cho DNVVN.
Đồng thời, ứng dụng công nghệ trong logistics và chuỗi cung ứng nhằm tối ưu hóa chuỗi cung ứng và giảm chi phí logistics để DNVVN cạnh tranh tốt hơn.
![]() |
“Điểm nghẽn” lớn nhất cản trở hợp tác giữa DNVVN và doanh nghiệp FDI là năng lực doanh nghiệp, tiêu chuẩn kỹ thuật. Ảnh minh họa |
Phóng viên: Từ kinh nghiệm tổ chức các chương trình kết nối cung – cầu, ông nhận thấy “điểm nghẽn” lớn nhất đang cản trở hợp tác giữa DNVVN Việt Nam và doanh nghiệp FDI là gì? đến từ năng lực doanh nghiệp, tiêu chuẩn kỹ thuật, hay cơ chế chính sách? Theo ông, đâu là giải pháp đột phá để tháo gỡ, thay vì chỉ xử lý từng vụ việc riêng lẻ?
Ông Nguyễn Bá Hải: Năng lực doanh nghiệp và tiêu chuẩn kỹ thuật đang là hai “điểm nghẽn” lớn cản trở hợp tác giữa DNVVN Việt Nam và doanh nghiệp FDI. Cụ thể, về năng lực doanh nghiệp, quy mô sản xuất của doanh nghiệp còn hạn chế. Nhiều DNVVN thiếu năng lực sản xuất quy mô lớn, ổn định để đáp ứng đơn hàng khối lượng cao từ các tập đoàn FDI như Samsung, Intel, hoặc Toyota.
DNVVN cũng thiếu hệ thống quản trị hiện đại dẫn đến khó khăn trong việc đảm bảo chất lượng, tiến độ giao hàng, và tối ưu hóa chi phí; thiếu kỹ năng thương mại quốc tế. DNVVN thường không quen với ngôn ngữ đàm phán, xây dựng hồ sơ năng lực, hoặc đáp ứng các yêu cầu về minh bạch hóa chuỗi cung ứng.
Về tiêu chuẩn kỹ thuật, các tập đoàn FDI đòi hỏi tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, truy xuất nguồn gốc rõ ràng và sản xuất bền vững (net-zero, giảm phát thải). Trong khi, nhiều DNVVN không có đủ nguồn lực để đạt các chứng nhận cần thiết hoặc đáp ứng các tiêu chí kỹ thuật phức tạp, như độ chính xác cao trong sản xuất linh kiện điện tử.
Việc đầu tư vào công nghệ, dây chuyền sản xuất hiện đại, hoặc hệ thống kiểm soát chất lượng để đáp ứng tiêu chuẩn FDI đòi hỏi vốn lớn, vượt khả năng của nhiều DNVVN.
Hiện nay, mặc dù cơ chế chính sách chưa phải là điểm nghẽn chính, nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế như: Quy trình cấp chứng nhận xuất xứ (C/O) hoặc hỗ trợ tài chính cho DNVVN còn phức tạp, chậm trễ; thiếu cơ chế ưu đãi cụ thể để khuyến khích DNVVN tham gia chuỗi cung ứng FDI, như giảm thuế cho doanh nghiệp cung ứng linh kiện hoặc nguyên liệu.
Như vậy, có thể khẳng định, năng lực doanh nghiệp và tiêu chuẩn kỹ thuật là hai “điểm nghẽn” chính, với trọng số lớn hơn so với cơ chế chính sách. Do các tập đoàn FDI thường ưu tiên lựa chọn nhà cung ứng dựa trên khả năng đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng và quy mô sản xuất, trước khi xem xét đến các yếu tố chính sách hỗ trợ. Tuy nhiên, cơ chế chính sách nếu được cải thiện có thể đóng vai trò xúc tác quan trọng để tháo gỡ các điểm nghẽn còn lại.
Để tháo gỡ “điểm nghẽn” trên, thay vì xử lý từng vụ việc riêng lẻ (như hỗ trợ từng doanh nghiệp đạt chứng nhận hoặc kết nối từng đối tác FDI), các giải pháp đột phá cần tập trung vào xây dựng mô hình hợp tác hệ sinh thái và nâng cấp năng lực toàn diện cho DNVVN.
Đó là xây dựng Hệ sinh thái kết nối cung - cầu với mô hình cụm liên kết ngành; phát triển một nền tảng số quốc gia (dựa trên Hệ sinh thái xúc tiến thương mại số) để kết nối DNVVN với các tập đoàn FDI. Nền tảng này sẽ cung cấp thông tin về nhu cầu cung ứng, tiêu chuẩn kỹ thuật, và hồ sơ đấu thầu của các tập đoàn FDI.
Cùng với đó là giải pháp nâng cấp năng lực doanh nghiệp toàn diện như thực hiện chương trình đào tạo tập trung vào tiêu chuẩn FDI; hỗ trợ tài chính và công nghệ; cải cách cơ chế chính sách để thúc đẩy hợp tác (đơn giản hóa thủ tục hành chính, thực hiện chính sách ưu đãi đặc thù, xây dựng thương hiệu cho DNVVN).
Trân trọng cảm ơn ông!