Thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu sẽ giữ nguyên đến hết năm 2026? |
Còn nhiều rào cản
Theo giới chuyên gia, công nghiệp môi trường là một ngành kinh tế cung cấp các công nghệ, thiết bị, dịch vụ và sản phẩm phục vụ yêu cầu về bảo vệ môi trường. Trong bối cảnh nguồn ô nhiễm môi trường gia tăng nhanh về số lượng, quy mô, mức độ tác động xấu lên môi trường như hiện nay thì nhu cầu xử lý ô nhiễm và các thiết bị môi trường luôn cao trong điều kiện kinh tế tăng trưởng liên tục. Điều này càng đòi hỏi ngành công nghiệp môi trường phát triển mạnh.
![]() |
Khuyến khích doanh nghiệp phát triển các sản phẩm công nghiệp môi trường. Ảnh minh họa |
Trong báo cáo Bộ Công Thương gửi Đoàn giám sát của Quốc hội khóa XV vào giữa tháng 3 vừa qua, để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp nghiệp môi trường, thực hiện nhiệm vụ được Chính phủ giao, Bộ Công Thương đã chủ trì xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 980/QĐ-TTg ngày 22/8/2023 về Danh mục cụ thể công nghệ, thiết bị, sản phẩm ngành công nghiệp môi trường và đã chủ trì xây dựng.
Bộ Công Thương cũng đã chủ trì, phối hợp với cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt Chương trình phát triển ngành công nghiệp môi trường giai đoạn 2025-2035 tại văn bản số 9871/TTr-BCT ngày 5/12/2024. Đây sẽ là những cơ sở pháp lý quan trọng để Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ/ngành, địa phương xây dựng, ban hành chính sách tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển ngành công nghiệp môi trường giai đoạn tới.
Tuy cần thiết là vậy, song công nghiệp môi trường là ngành mới, gần như chưa phát triển ở Việt Nam. Bên cạnh đó, chưa có chính sách hỗ trợ nhằm tạo động lực cho doanh nghiệp công nghiệp môi trường tham gia và chuyển đổi sang sản xuất các sản phẩm đạt chất lượng công nghệ cao...; hạ tầng đáp ứng cho phát triển công nghiệp môi trường chưa được hoàn thiện, đầy đủ và phù hợp với bối cảnh Việt Nam; nguồn nhân lực, cơ cấu nguồn nhân lực cho ngành còn hạn chế, chưa đủ cả về lượng và chất…
Cần mô hình phù hợp để phát triển
Bàn về vấn đề này, TS. Trịnh Xuân Đức - Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Hạ tầng và Môi trường - cho hay, công nghiệp môi trường không chỉ là xử lý ô nhiễm mà nó gồm bốn cấp độ phát triển: Làm sạch, xử lý chất thải trả lại môi trường; tái chế, biến chất thải thành nguyên liệu; tuần hoàn, khép kín chu trình sản xuất, tiêu dùng, tái chế; không phát thải, nền công nghiệp không để lại chất thải hoặc tái sử dụng toàn bộ. “Ở thời điểm hiện tại, Việt Nam chủ yếu mới dừng ở cấp độ làm sạch và đang mon men bước vào tái chế”, ông Đức cho biết.
Với kinh nghiệm nghiên cứu và triển khai thực tiễn các giải pháp công nghệ môi trường, ông Đức nhìn nhận: Cũng như bất kỳ ngành công nghiệp nào khác, công nghiệp môi trường phải có nguyên liệu đầu vào, chuỗi giá trị sản xuất, dịch vụ, công nghệ, hệ thống nghiên cứu, đào tạo, cùng với hành lang chính sách và tài chính đi kèm.
Để phát triển ngành công nghiệp môi trường một cách bài bản, trước hết, Việt Nam cần xác định rõ một mô hình phát triển phù hợp, mang tính định hướng vĩ mô. “Tôi cho rằng Việt Nam cần một mô hình mang đặc thù riêng, nhưng vẫn cần hội tụ ba yếu tố then chốt: Làm chủ công nghệ; doanh nghiệp tư nhân dẫn dắt, và Nhà nước đóng vai trò kiến tạo”, ông Đức nhấn mạnh.
Đồng quan điểm với ông Đức, nhiều ý kiến bày tỏ, để ngành công nghiệp môi trường phát triển cần rà soát lại các chính sách, nhất là những quy định pháp luật liên quan đến phát triển công nghiệp môi trường để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện về mặt pháp lý thúc đẩy, khuyến khích doanh nghiệp phát triển các sản phẩm công nghiệp môi trường.
Chủ trì tại cuộc họp với các bộ, ngành về dự thảo Chương trình phát triển ngành công nghiệp môi trường đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, diễn ra mới đây, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu Bộ Công Thương phải rà soát thể chế, chính sách đã ban hành, đề xuất bổ sung những quy định còn thiếu.
Đặc biệt trong lĩnh vực thuế và tài chính, cần xem xét điều chỉnh thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp ngành môi trường; có cơ chế khuyến khích chuyển giao công nghệ khi đầu tư, ưu đãi khi đáp ứng tiêu chuẩn; hỗ trợ nghiên cứu – triển khai (R&D), chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực cho ngành công nghiệp môi trường, bao gồm cả việc sử dụng các quỹ đã hình thành (quỹ môi trường, quỹ đổi mới sáng tạo, quỹ khoa học công nghệ...).
Về phía doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực năng lượng, xây dựng, công nghiệp cần được giao thực hiện các dự án mẫu về công nghiệp môi trường để làm cơ sở nhân rộng trên toàn quốc.
Cùng với đó, cần thúc đẩy hợp tác công – tư trong nghiên cứu và sản xuất sản phẩm mới. Nhà nước hỗ trợ vốn, hạ tầng và đào tạo nhân lực; doanh nghiệp triển khai thực tế, vận hành, thương mại hóa sản phẩm. Đồng thời, xây dựng các trung tâm công nghiệp môi trường cấp quốc gia, tập trung năng lực sản xuất, chuyển giao và đổi mới sáng tạo, thay vì triển khai dàn trải, nhỏ lẻ, thiếu hiệu quả.