GS. TS Hoàng Văn Cường: Đất thương mại dịch vụ thậm chí còn quan trọng hơn đất ở PGS.TS Lê Quốc Doanh: Bắc Trung bộ sẽ thành vùng nông nghiệp "tỷ đô" |
KTTN tại Việt Nam đã trải qua một hành trình đầy biến động, từ chỗ bị hạn chế đến khi được khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, việc nhận diện và tháo gỡ các “điểm nghẽn” để khu vực này bứt phá là vấn đề cấp thiết.
Tại buổi toạ đàm đối thoại chính sách: Giải pháp đột phá tháo gỡ các điểm nghẽn phát triển cho khu vực kinh tế tư nhân, diễn ra ngày 15/8/2025, GS.TS Ngô Thắng Lợi cho rằng, quá trình phát triển của KTTN Việt Nam đã được phác họa một cách rõ ràng, từ những thành tựu nổi bật, hạn chế còn tồn tại đến những giải pháp đột phá.
![]() |
GS.TS Ngô Thắng Lợi - Đại học Kinh tế Quốc dân. Ảnh: Phan Chính |
Lịch sử phát triển của KTTN Việt Nam được GS.TS Ngô Thắng Lợi chia thành 5 giai đoạn chính: Giai đoạn đầu, "Trước Đổi mới (trước năm 1986)", KTTN gần như không có không gian để phát triển.
Giai đoạn thứ hai, "Khởi động (1986-1999)", bắt đầu với Quyết định 27-HĐBT năm 1988, KTTN chính thức được công nhận và các luật như Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 đã tạo hành lang pháp lý cho hàng chục nghìn doanh nghiệp ra đời.
Giai đoạn ba "Cất cánh (2000-2014)" chứng kiến sự hoạt động mạnh mẽ hơn với các Luật Doanh nghiệp 1999 và 2005 cùng Luật Đầu tư 2005.
Giai đoạn 4 "Tăng tốc" (từ 2014 trở đi) đánh dấu việc KTTN được khẳng định vị trí động lực phát triển, với số lượng doanh nghiệp vượt mốc 900 nghìn và hàng triệu hộ kinh doanh.
Cuối cùng, "Giai đoạn Bước ngoặt mới" đã khẳng định KTTN là động lực chính cho phát triển kinh tế quốc gia, thể hiện qua các Nghị quyết quan trọng như 57, 59, 66 và 68 trong các năm 2024-2025, cho thấy sự chuyển dịch tư duy từ "bổ sung" sang "trung tâm" trong thiết kế chính sách quốc gia.
Những "hành trang" của KTTN cho đến nay đã chứng minh được vị thế của mình. Thứ nhất, sự phát triển vượt trội về tốc độ tăng bình quân vốn đầu tư, số lượng lao động và số lượng doanh nghiệp. Thứ hai, khu vực này đã có đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế quốc gia, tạo ra tới 85% tổng số việc làm, sở hữu 50% tổng vốn, đóng góp 35% thu ngân sách và 43% vào GDP.
Điều này chứng tỏ KTTN là "xương sống" của nền kinh tế, tạo ra hàng chục triệu việc làm và nguồn vốn lớn cho phát triển kinh tế - xã hội. Thứ ba, hệ thống các tập đoàn và doanh nghiệp quy mô lớn thuộc KTTN đang ngày càng đóng vai trò dẫn dắt, với số lượng doanh nghiệp tư nhân trong các danh sách uy tín như VNR500, VNR100, VNR50, VNR20 và VNR10 tăng lên đáng kể qua các năm.
Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu đáng tự hào, KTTN Việt Nam vẫn đối mặt với những "điểm yếu" nội tại và "điểm nghẽn" lớn. Hiệu quả kinh doanh của KTTN vẫn ở mức thấp nhất so với khu vực kinh tế nhà nước (KTNN) và doanh nghiệp FDI. Tỷ lệ doanh nghiệp thua lỗ cao, lợi nhuận trước thuế bình quân thấp và năng suất lao động chỉ bằng một phần nhỏ so với các khu vực khác.
Năng lực khoa học – công nghệ cũng là một rào cản lớn, khi đa số doanh nghiệp KTTN vẫn thuộc nhóm ngành công nghệ thấp hoặc trung bình, hạn chế khả năng đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh. Thu nhập của người lao động trong khu vực này cũng thấp hơn đáng kể so với KTNN và FDI, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.
Ngoài các điểm yếu nội tại, GS.TS Ngô Thắng Lợi còn chỉ ra bốn "điểm nghẽn" chính. Thứ nhất, nhận thức và tư duy về KTTN chưa đầy đủ, còn tồn tại quan niệm KTTN chỉ là phép cộng đơn thuần các bộ phận cấu thành.
Thứ hai, định vị không rõ vị trí KTTN trong nền kinh tế, với sự e ngại về sự tồn tại của KTTN có thể đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa và mâu thuẫn trong tư duy khi xác định KTTN là động lực chính nhưng vẫn nhấn mạnh vai trò chủ đạo của KTNN.
Thứ ba, hệ thống chính sách thiếu tính bao trùm, khiến KTTN gặp khó khăn trong tiếp cận các cơ hội kinh doanh (vốn, đất đai) và phân phối thu nhập, đặc biệt là chính sách thuế còn chưa bình đẳng.
Thứ tư, chính bản thân KTTN còn thiếu sự liên kết, các bộ phận hoạt động độc lập, cạnh tranh không lành mạnh và chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa KTTN trong nước với người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Để tháo gỡ các "điểm nghẽn" này, GS.TS Ngô Thắng Lợi đề xuất một loạt giải pháp toàn diện. Trước hết, cần thay đổi nhận thức và định vị một cách đầy đủ và thống nhất về các bộ phận cấu thành KTTN. Việc xác định KTTN là động lực chính cần có cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc, không mâu thuẫn với vai trò chủ đạo của KTNN.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện chính sách bao trùm, xây dựng mô hình phát triển bao trùm ở cấp độ doanh nghiệp, đảm bảo cơ hội bình đẳng cho doanh nghiệp tư nhân so với KTNN và FDI trong tiếp cận nguồn lực, cơ hội kinh doanh và phân phối kết quả hoạt động; có chính sách hỗ trợ riêng cho từng đối tượng doanh nghiệp (lớn, vừa, nhỏ, siêu nhỏ) và hộ kinh doanh.
Ngoài ra, cần cải thiện nội tại và liên kết bằng cách hoàn thiện mô hình hiệp hội kinh doanh, để các hiệp hội được tổ chức và điều hành bởi những doanh nhân tâm huyết. Việc chuyển đổi các hiệp hội doanh nghiệp mang tính địa phương sang tầm cỡ vùng sẽ xóa bỏ rào cản hành chính và thúc đẩy "hiệu ứng chảy tràn" thông qua chuỗi giá trị và hợp tác sản xuất.