Cụ thể, cơ quan này đề nghị bổ sung Điều 198a vào Luật các tổ chức tín dụng, quy định rõ việc tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán và xử lý nợ có quyền thu giữ tài sản bảo đảm trong một số trường hợp nhất định.
Việc thu giữ chỉ được thực hiện nếu hợp đồng bảo đảm có điều khoản quy định bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm thu giữ tài sản trong quá trình xử lý khoản nợ xấu, phù hợp với quy định pháp luật.
Đáng chú ý, quyền thu giữ này không phải là hành động đơn phương hay vô điều kiện. Thay vào đó, việc thu giữ phải tuân thủ các điều kiện, giới hạn nhất định, đảm bảo minh bạch, công bằng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan. Quy trình thu giữ cũng cần tuân theo trình tự, thủ tục rõ ràng, tránh gây tranh chấp không cần thiết.
![]() |
Đề xuất cho phép ngân hàng thu giữ tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu. Ảnh minh họa. |
Để thực hiện quyền thu giữ, cần đáp ứng một số điều kiện sau:
-Việc xử lý tài sản bảo đảm diễn ra theo quy định của pháp luật dân sự.
-Hợp đồng bảo đảm có điều khoản cho phép thu giữ tài sản trong trường hợp khoản nợ xấu cần xử lý.
-Biện pháp bảo đảm đã có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba theo quy định pháp luật.
-Tài sản bảo đảm không thuộc diện tranh chấp trong vụ án đang được tòa án thụ lý, không bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc kê biên để thi hành án.
-Tổ chức tín dụng, tổ chức xử lý nợ phải công khai thông tin về thời gian, địa điểm, lý do thu giữ trước khi thực hiện.
Ngân hàng Nhà nước đưa ra đề xuất này nhằm tháo gỡ vướng mắc trong quá trình xử lý nợ xấu. Hiện nay, nếu người đang giữ tài sản không tự nguyện giao nộp, tổ chức tín dụng phải khởi kiện và chờ phán quyết từ tòa án, gây mất nhiều thời gian. Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành chưa trực tiếp quy định quyền thu giữ tài sản bảo đảm, mà chỉ công nhận quyền yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp.
Vì vậy, việc xử lý tài sản đảm bảo gặp nhiều khó khăn, đặc biệt khi chủ tài sản cố tình không hợp tác hoặc tạo ra các tranh chấp mới nhằm trì hoãn quá trình xử lý. Việc kéo dài thời gian xử lý nợ xấu không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức tín dụng mà còn làm chậm quá trình tái tạo nguồn vốn, ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng và khả năng tiếp cận tín dụng của khách hàng.
Ngân hàng Nhà nước nhận định rằng, nếu đề xuất được thông qua, nó có thể giúp tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, khi việc xử lý tài sản đảm bảo và thu hồi nợ xấu diễn ra hiệu quả hơn, đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc giải phóng dòng vốn trong hệ thống tài chính.
Tính đến cuối năm 2024, tình hình nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những diễn biến đáng chú ý. Theo thống kê, nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) của 27 ngân hàng đạt hơn 131.000 tỷ đồng, tăng hơn 39.500 tỷ đồng so với năm 2023, tương đương mức tăng 43%. Tỷ trọng của nợ nhóm 5 trong tổng dư nợ cho vay cũng tăng từ 0,91% năm 2023 lên 1,11% năm 2024. Việc nợ xấu gia tăng gây áp lực lớn lên hệ thống ngân hàng, đòi hỏi các ngân hàng phải tăng cường trích lập dự phòng rủi ro và tìm kiếm giải pháp hiệu quả để xử lý nợ xấu, nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của ngành ngân hàng. |