Theo TS. Chử Đức Hoàng - Chánh Văn phòng, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF), Bộ Khoa học và Công nghệ, chiến lược phát triển chuỗi giá trị nông sản Việt là toàn bộ quá trình biến một ý tưởng khoa học hoặc một phát minh công nghệ thành một sản phẩm có giá trị thương mại, được thị trường chấp nhận. Quá trình này bao gồm các bước: Nghiên cứu cơ bản (R&D); Phát triển ứng dụng và Tạo mẫu; Sản xuất thử nghiệm và tối ưu hóa; Thương mại hóa và mở rộng thị trường.
Tuy nhiên hiện nay, việc phát triển chuỗi giá trị nông sản của Việt Nam đang gặp nhiều thách thức. Đó là quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ. Việt Nam có gần 9 triệu hộ nông dân với diện tích canh tác trung bình dưới 0,5 ha. Đây là rào cản lớn nhất cho việc cơ giới hóa và ứng dụng công nghệ đồng bộ.
Điều này dẫn đến chất lượng nông sản không đồng đều giữa các hộ, các vùng. Chi phí sản xuất cao do không đạt được kinh tế theo quy mô. Rất khó để áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất nghiêm ngặt trên diện rộng.
Tác động nặng nề của biến đổi khí hậu làm cho năng suất bấp bênh, rủi ro mất mùa cao, chi phí phòng chống thiên tai tăng. Tình trạng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học vẫn còn phổ biến. Hệ thống kiểm soát chất lượng và truy xuất nguồn gốc còn yếu, chủ yếu mang tính hình thức. Điều này gây ra "khủng hoảng niềm tin" ngay tại thị trường nội địa và là rào cản lớn nhất khi xuất khẩu vào các thị trường khó tính.
![]() |
| TS. Chử Đức Hoàng - Chánh Văn phòng, Quỹ NATIF đề cao vai trò đầu tàu của doanh nghiệp trong phát triển chuỗi giá trị nông sản. Ảnh: Hà Anh. |
“Hiện nay, hàng rào kỹ thuật và phi thuế quan ngày càng khắt khe. Các thị trường nhập khẩu không chỉ yêu cầu về chất lượng, an toàn thực phẩm (dư lượng thuốc trừ sâu), mà còn các tiêu chuẩn về phát triển bền vững và tín chỉ carbon. Nông sản Việt phải cạnh tranh trực tiếp với các cường quốc nông nghiệp có chiến lược bài bản hơn”, ông Hoàng nói.
Cũng theo ông Hoàng, xuất khẩu nông sản Việt phụ thuộc vào một vài thị trường lớn. Thị trường Trung Quốc chiếm 21,4% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản, tạo ra sự phụ thuộc và rủi ro lớn khi có thay đổi về chính sách biên mậu.
Đánh giá về mô hình "4 Nhà" (Nhà nước – Nhà Khoa học – Doanh nghiệp – Hợp tác xã) trong chuỗi giá trị nông sản Việt, Chánh Văn phòng, Quỹ NATIF cho rằng, sự liên kết của mô hình này rất lỏng lẻo, "mạnh ai nấy làm". Doanh nghiệp và nông dân thiếu sự tin tưởng lẫn nhau, dẫn đến tình trạng "bẻ kèo" hợp đồng bao tiêu khi giá thị trường biến động.
Nhà khoa học nghiên cứu trong "tháp ngà", không nắm bắt được nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và nông dân. Các hợp tác xã được kỳ vọng là cầu nối giữa nông dân và doanh nghiệp, nhưng phần lớn hoạt động còn yếu, thiếu năng lực quản trị, tài chính và công nghệ để đóng vai trò dẫn dắt.
"Công nghệ Blockchain có thể đảm bảo một quy trình được ghi nhận là minh bạch, nhưng nó không thể tạo ra niềm tin ban đầu nếu các bên không sẵn sàng ngồi lại với nhau. Tháo gỡ điểm nghẽn về liên kết chính là bài toán quản trị quan trọng nhất”, ông Hoàng nhấn mạnh.
Để thực hiện hiệu quả chiến lược phát triển chuỗi giá trị nông sản, cần thúc đẩy sự kiến tạo và hỗ trợ của Nhà nước, đặc biệt là trong việc hoàn thiện thể chế, chính sách; đầu tư vào hạ tầng chiến lược, hạ tầng số.
Vai trò của doanh nghiệp là rất quan trọng trong việc làm đầu tàu dẫn dắt quá trình phát triển chuỗi giá trị nông sản. Doanh nghiệp là người đầu tư cho R&D; dẫn dắt và tổ chức chuỗi liên kết; tiên phong ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Cùng với đó, người nông dân, hợp tác xã cần thay đổi tư duy sản xuất. Cần liên kết lại để tạo ra vùng sản xuất lớn, đồng nhất về chất lượng; chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp, bán cái mình có sang sản xuất hàng hóa, sản xuất cái thị trường cần.
“Cái đích cuối cùng là làm cho thế giới biết được nông sản của Việt Nam. Chính quyền phải vào cuộc, tạo đòn bẩy về cơ chế chính sách, nguồn lực để người nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp phát triển chuỗi giá trị nông sản một cách hiệu quả”, ông Hoàng nhấn mạnh.