Chủ nhật 14/09/2025 08:03
Hotline: 024.355.63.010
Thời cuộc

Thủ tướng Chính phủ chỉ thị các giải pháp tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ vật liệu xây dựng

27/08/2024 15:34
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký ban hành Chỉ thị 28/CT-TTg ngày 26/8/2024 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng.
Ảnh minh họa
Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng.

Chỉ thị nêu: Vật liệu xây dựng (VLXD) bao gồm xi măng, thép xây dựng, gạch ốp lát, sứ vệ sinh, kính xây dựng, vật liệu xây và các loại VLXD khác có vai trò rất quan trọng, phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng, đô thị, nhà ở trong thiết kế và phát triển đất nước. Các hoạt động sản xuất, tiêu thụ VLXD tác động đến việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ngành VLXD nước ta gặp rất nhiều khó khăn, sản lượng sản xuất, tiêu thụ và doanh thu đều giảm sút, dẫn đến nguy cơ tác động đến nền kinh tế và ảnh hưởng đến tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Qua đánh giá của các Bộ, ngành, hiệp hội và các doanh nghiệp trong ngành cho thấy khó khăn chủ yếu bao gồm:

Một là, cơ chế chính sách để phát triển bền vững ngành VLXD còn có khoảng cách so với thực tiễn; phản ứng chính sách còn chưa kịp thời với các vấn đề phát sinh, cam kết quốc tế trong các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên và các diễn biến nhanh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ các sản phẩm VLXD. Cơ chế chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất VLXD ứng dụng khoa học công nghệ chưa được ban hành cụ thể.

Hai là, chi phí nhiên liệu than, dầu FO, khí nén thiên nhiên (CNG), khí gas hóa lỏng (LPG) và điện tăng cao. Các nguyên liệu sản xuất VLXD như đá vôi, đá sét, phụ gia làm xi măng; cát trắng silic, đá vôi, đolomit làm kính; cao lanh, felspat (tràng thạch) làm gạch ốp lát, sứ vệ sinh; cát để sản xuất vật liệu xây không nung (VLXKN), nguyên liệu đầu vào làm thép,… vẫn còn gặp khó khăn, có lúc chưa bảo đảm đủ ổn định để sản xuất.

Ba là, thị trường tiêu thụ VLXD trong nước và xuất khẩu gặp nhiều khó khăn do tổng cầu trong nước và thế giới đều giảm, chuỗi cung ứng bị đứt gẫy, thị trường bất động sản trong nước tăng trưởng chậm, nhiều công trình xây dựng, dự án trọng điểm về kết cấu hạ tầng chậm triển khai, phải hoãn hoặc giãn tiến độ; chi phí vận tải tăng cao; xuất khẩu clanhke, các sản phẩm VLXD sụt giảm do cạnh tranh gay gắt về giá bán sản phẩm từ các nhà sản xuất lớn trên thế giới, cộng với các quy định về hàng rào kỹ thuật tại các thị trường xuất khẩu; thị trường nội địa cạnh tranh gay gắt do sản phẩm nhập ngoại tăng lên đáng kể trong thời gian qua.

Bốn là, tình hình tài chính gặp khó khăn do các doanh nghiệp sản xuất VLXD, nhất là các doanh nghiệp xi măng có tỷ lệ vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng lớn. Giai đoạn đầu khi mới vận hành nhà máy, các doanh nghiệp phải trả nợ vốn vay, cộng với lãi vay cao, dẫn đến áp lực trả nợ cả gốc và lãi lớn. Do tiêu thụ sản phẩm rất chậm trong thời gian gần đây, nhiều doanh nghiệp đã phải dừng một số dây chuyền sản xuất, dẫn đến dòng tiền để trả nợ cho ngân hàng và chi phí nguyên, nhiên liệu phục vụ sản xuất rất khó khăn. Nhiều nhà máy VLXD, đặc biệt là nhóm xi măng, thép xây dựng sản xuất không hiệu quả, thua lỗ, dẫn đến nợ xấu.

Năm là, tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái liên quan đến VLXD vẫn chưa được giải quyết triệt để.

6 quan điểm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ

Để khắc phục các khó khăn, vướng mắc nêu trên và thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép và VLXD trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thủ trưởng các cơ quan có liên quan quán triệt 6 quan điểm chỉ đạo:

1. Bám sát thực tiễn, kịp thời phản ứng nhanh chính sách với những vấn đề khó khăn, vướng mắc nổi lên, tổ chức thực hiện quyết liệt, mạnh mẽ trong lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động sản xuất, tiêu thụ xi măng, thép xây dựng và các loại VLXD khác.

2. Phát triển ngành VLXD bảo đảm hiệu quả, bền vững, đáp ứng cơ bản nhu cầu trong nước, tăng cường xuất khẩu các sản phẩm VLXD có giá trị kinh tế cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội.

3. Tiếp cận và ứng dụng nhanh nhất các thành tựu khoa học, công nghệ, quản lý nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong sản xuất; nâng cao chất lượng sản phẩm; đa dạng hóa các chủng loại sản phẩm chất lượng cao, có giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu xây dựng.

4. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu trong sản xuất; khai thác sử dụng tiết kiệm tài nguyên khoáng sản; sử dụng tối đa các chất thải, phế thải của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng và chất thải sinh hoạt làm nguyên liệu, nhiên liệu, phụ gia cho quá trình sản xuất theo hướng kinh tế tuần hoàn; hạn chế tối đa ảnh hưởng tới môi trường trong quá trình khai thác, chế biến, sử dụng khoáng sản và sản xuất VLXD theo hướng sản xuất xanh.

5. Phát huy, khuyến khích các nhà đầu tư, các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, phát triển VLXD;

6. Phân bổ mạng lưới cơ sở sản xuất VLXD trên toàn quốc phù hợp với điều kiện về tự nhiên, xã hội của từng vùng, miền.

4 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm

Các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thủ trưởng các cơ quan có liên quan tập trung thực hiện 4 nhiệm vụ và giải pháp sau:

1. Về cơ chế chính sách phát triển ngành:

- Rà soát các cơ chế, chính sách, thể chế để khuyến khích đầu tư phát triển ngành VLXD nhanh và bền vững, phục vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, điều chỉnh giảm mặt bằng lãi suất cho vay cho các khách hàng, trong đó có doanh nghiệp trong ngành VLXD theo quy định pháp luật. Ban hành các chính sách ưu đãi về sử dụng rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp, phế thải một số ngành công nghiệp như tro xỉ, thạch cao,… làm nhiên liệu, nguyên liệu thay thế trong sản xuất xi măng và các VLXD khác. Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực VLXD nhất là trong hoạt động sản xuất, tiêu thụ xi măng, thép xây dựng.

- Nghiên cứu điều chỉnh chính sách thuế về xuất khẩu sản phẩm clanhke xi măng để bảo đảm tính cạnh tranh với các nước cùng xuất khẩu mặt hàng này, đồng thời phù hợp với Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) về việc không đánh thuế xuất khẩu hàng hoá với các nước ký Hiệp định. Tăng cường các biện pháp về phòng vệ thương mại, hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá đối với các sản phẩm sắt thép, các sản phẩm VLXD như gạch ốp lát nhập khẩu, ván sợi gỗ (LDF/MDF/HDF), sứ vệ sinh, kính xây dựng… nhằm loại bỏ các hành vi cạnh tranh không công bằng và bảo đảm phù hợp với những quy định của Việt Nam và WTO.

2. Về áp dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi sản xuất của ngành, nhất là sản xuất xanh:

Chủ động đổi mới, áp dụng linh hoạt công nghệ cao, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn để giảm giá thành, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm.

3. Về thị trường:

- Tăng cường dự báo diễn biến trong và ngoài nước để chủ động có các giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả, giúp cho doanh nghiệp có các định hướng ổn định sản xuất, kinh doanh; chống buôn lậu, gian lận thương mại, chống hàng giả, hàng nhái; mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước.

- Đẩy mạnh đầu tư công, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, nông thôn, các công trình quốc phòng, an ninh, công trình biển và hải đảo phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế biển.

- Tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, nhà ở; đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2023 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh bền vững.

- Đẩy mạnh triển khai Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp và các chương trình, dự án xây dựng nhà ở khác để tiêu thụ VLXD.

- Nghiên cứu tăng tỷ lệ lựa chọn phương án sử dụng cầu cạn bê tông cốt thép đối với các dự án đường bộ cao tốc, đặc biệt là ở những vùng có yêu cầu thoát lũ, vùng đất yếu có chiều sâu lớn và những vùng thiếu vật liệu đắp nền đường như vùng đồng bằng sông Cửu Long; nghiên cứu sử dụng tối đa gia cố đất bằng xi măng trong xây dựng đường bộ tại khu vực đầu cầu, cống, các vị trí có chiều cao đắp lớn, các vị trí có chiều sâu đất yếu lớn,….

- Đẩy mạnh xây dựng các công trình chống biến đổi khí hậu như đê chắn sóng, các công trình chống sạt lở, gây lún đất các khu vực bị tác động.

- Ưu tiên đầu tư đường bê tông xi măng trong phát triển đường giao thông nông thôn miền núi, khu vực địa hình khó khăn, độ dốc lớn và tại những vùng, khu vực thường xuyên bị ngập nước.

4. Về hợp tác quốc tế:

Đẩy mạnh hợp tác đầu tư, chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ, quản trị doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả, tiết kiệm nguyên, nhiên liệu, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường trong lĩnh vực VLXD.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Xây dựng rà soát, đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng thời kỳ 2021 - 2030, định hướng đến năm 2050 tại Quyết định số 1266/QĐ-TTg ngày 18 tháng 8 năm 2020; Chương trình phát triển VLXKN tại Việt Nam đến năm 2030 tại Quyết định số 2171/QĐ-TTg ngày 23 tháng 12 năm 2021 và các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, đề án liên quan đến VLXD để điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế xã hội.

Triển khai hiệu quả Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm VLXD thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 1626/QĐ-TTg ngày 15 tháng 12 năm 2023 và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm VLXD thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2024.

Đôn đốc các doanh nghiệp VLXD, đặc biệt là xi măng tiết giảm chi phí sản xuất, tiết kiệm năng lượng, đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, tăng cường đầu tư các hệ thống phát điện nhiệt dư và sử dụng các loại nhiên liệu thay thế từ rác thải, sử dụng các nguyên liệu thay thế là phế thải của các ngành công nghiệp như tro xỉ, thạch cao.

Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tiêu chuẩn, quy chuẩn và triển khai các biện pháp về hàng rào kỹ thuật đối với các sản phẩm VLXD nhập khẩu, đặc biệt là gạch ốp lát, sứ vệ sinh và kính xây dựng, bảo đảm phù hợp với những quy định về Tự do thương mại của WTO; chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương tập trung tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, đẩy mạnh triển khai Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp và các chương trình, dự án xây dựng nhà ở khác.

Bộ Công Thương khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển ngành thép Việt nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, lĩnh vực thép xây dựng cần được bảo đảm cân đối cung cầu và đầu tư phát triển bền vững.

Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển lĩnh vực thép xây dựng như: các chính sách về thuế các loại (thuế nhập khẩu, thu nhập doanh nghiệp,…), thu hút đầu tư, xây dựng tiêu chuẩn quốc gia; phân cấp, phân quyền trong công tác quản lý lĩnh vực thép xây dựng.

Chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và các bộ ngành liên quan trong việc xem xét hồ sơ đề nghị điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, tiến hành điều tra theo quy định và kịp thời ban hành các biện pháp cụ thể về phòng vệ thương mại đối với các sản phẩm sắt thép và các sản phẩm VLXD như gạch ốp lát nhập khẩu, ván sợi gỗ (LDF/MDF/HDF), sứ vệ sinh, kính xây dựng… bảo đảm phù hợp với những quy định của pháp luật Việt Nam và WTO.

Chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các hội, hiệp hội nghề đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường nước ngoài để hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu clanhke và xi măng; thép xây dựng, tôn mạ và các sản phẩm thép.

Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất vật liệu xây dựng

Bộ Tài chính chủ trì xây dựng Nghị định sửa đổi Nghị định số 26/2023/NĐ-CP ngày 31 tháng 5 năm 2023 về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan; nghiên cứu, đề xuất điều chỉnh theo hướng áp dụng thuế suất thuế xuất khẩu mặt hàng clanhke xi măng ở mức phù hợp để tháo gỡ khó khăn về tiêu thụ sản phẩm hiện nay.

Chủ trì xây dựng Nghị định hướng dẫn Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) sau khi được Quốc hội thông qua; nghiên cứu quy định về sản phẩm clanhke xi măng theo hướng "sản phẩm clanhke xi măng thuộc đối tượng chịu thuế GTGT" kể cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất các sản phẩm VLXD trong nước có chất lượng thay thế VLXD nhập khẩu, thân thiện môi trường, các sản phẩm VLXD chế biến sâu để xuất khẩu theo cơ chế, chính sách hiện hành; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư các trạm nghiền, trạm phân phối xi măng ở những địa phương không sản xuất được clanhke và có nguồn phụ gia, tận dụng được tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện.

Giải quyết kịp thời các thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, thuê đất đối với các dự án đầu tư khai thác khoáng sản làm VLXD và sản xuất VLXD. Đồng thời, khi xem xét, quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư các dự án sản xuất VLXD cần cân nhắc kỹ để tránh việc đầu tư dư thừa, dẫn đến cung vượt cầu, gây lãng phí nguồn lực xã hội.

Đồng thời, các địa phương đẩy mạnh các dự án đầu tư công, nhà ở xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, nông thôn, phòng chống thiên tai trên địa bàn để tăng lượng sử dụng xi măng, sắt thép và các VLXD khác.

Cắt giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp VLXD phải đổi mới, áp dụng công nghệ sản xuất và phương thức quản lý hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành sản phẩm; rà soát, cắt giảm chi phí sản xuất đối với nguyên liệu, nhiên liệu than, dầu, khí đốt và điện; áp dụng các giải pháp nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng trong sản xuất, tận dụng các nguồn nhiên liệu giá rẻ từ phế thải để giảm chi phí sản xuất.

Đa dạng hoá sản phẩm VLXD, phù hợp các loại hình công trình xây dựng, điều kiện khí hậu, vùng miền khác nhau; tăng cường sản xuất các sản phẩm VLXD thay thế nhập khẩu đáp ứng nhu cầu thị trường; tìm kiếm, mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm VLXD với nhiều nước trên thế giới...

Phương Nhi

Tin bài khác
Việt Nam đồng hành cùng thế giới bảo vệ tầng ô-dôn: Từ khoa học đến hành động toàn cầu

Việt Nam đồng hành cùng thế giới bảo vệ tầng ô-dôn: Từ khoa học đến hành động toàn cầu

Nhân Ngày Quốc tế bảo vệ tầng ô-dôn 16/9, Việt Nam khẳng định cam kết thực hiện Công ước Vienna, thúc đẩy hợp tác quốc tế, loại trừ khí gây hại và hướng tới phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Sửa đổi Luật Xây dựng để tháo gỡ nút thắt, khơi thông đầu tư

Sửa đổi Luật Xây dựng để tháo gỡ nút thắt, khơi thông đầu tư

Bộ Xây dựng trình Dự thảo Luật sửa đổi toàn diện, hướng tới đơn giản hóa thủ tục, phân cấp mạnh mẽ và tạo môi trường pháp lý minh bạch cho ngành xây dựng.
Quốc gia khởi nghiệp - Làm sao để vốn xanh hiệu quả ở Việt Nam?

Quốc gia khởi nghiệp - Làm sao để vốn xanh hiệu quả ở Việt Nam?

Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam chứng kiến một dòng vốn tín dụng lớn đến vậy nhằm hỗ trợ phát triển khởi nghiệp xanh và đổi mới sáng tạo, khoảng 2,5 triệu tỷ đồng dự kiến được bổ sung trong năm 2025, mức tăng kỷ lục từ trước tới nay. Nhưng điều đáng chú ý không chỉ là quy mô vốn, mà là cách dòng tiền ấy được định hướng. Từ Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đến chiến lược tín dụng xanh quốc gia, Chính phủ đã lựa chọn con đường “bơm xanh”, khơi mở khát vọng kiến tạo một quốc gia khởi nghiệp xanh, hùng cường và đủ sức cạnh tranh toàn cầu.
Đề xuất tăng quyền chủ động cho Chính phủ kiểm soát ngành nghề kinh doanh có điều kiện

Đề xuất tăng quyền chủ động cho Chính phủ kiểm soát ngành nghề kinh doanh có điều kiện

Bộ Tài chính đang xây dựng dự thảo Luật Đầu tư kinh doanh, trong đó đề xuất nhiều quy định mới liên quan đến Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và các điều kiện đầu tư kinh doanh.
Yêu cầu báo cáo giải pháp quản lý thị trường tiền tệ, vàng, chứng khoán

Yêu cầu báo cáo giải pháp quản lý thị trường tiền tệ, vàng, chứng khoán

Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính báo cáo tình hình, giải pháp quản lý thị trường tiền tệ, vàng, tỷ giá hối đoái, lãi suất, tín dụng bất động sản và thị trường chứng khoán.
Gỡ điểm nghẽn thể chế để kinh tế tư nhân bứt phá

Gỡ điểm nghẽn thể chế để kinh tế tư nhân bứt phá

Ngày 11/9, tại Hà Nội, đã diễn ra Hội thảo khoa học “Nhận diện các yếu tố cản trở và kiến nghị hoàn thiện thể chế, pháp luật để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển”. Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Ngọc chủ trì hội thảo.
An Giang phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 10% năm 2025

An Giang phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 10% năm 2025

Năm 2025, tỉnh An Giang được Chính phủ giao tăng trưởng kinh tế 8,5%, nhưng UBND tỉnh yêu cầu các sở, ngành, địa phương tập trung các giải pháp nhằm phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng 10% theo kế hoạch của tỉnh.
Gia Lai: Chuyển đổi cây trồng kém hiệu quả, mỗi xã chỉ chọn 1-2 cây có lợi thế

Gia Lai: Chuyển đổi cây trồng kém hiệu quả, mỗi xã chỉ chọn 1-2 cây có lợi thế

Trong 05 năm tới, tỉnh Gia Lai lên kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng kém hiệu quả với diện tích khoảng 38.500 ha, trong đó đất trồng cao su khoảng 14.715 ha, chiếm hơn 38%. Mỗi xã/phường xác định và ưu tiên trồng tập trung, lựa chọn 01 - 02 cây có lợi thế.
Siết khí thải ô tô: Bước đi cần thiết hướng tới giao thông xanh

Siết khí thải ô tô: Bước đi cần thiết hướng tới giao thông xanh

Việc siết khí thải ô tô khiến các hãng xe buộc phải thích ứng bằng cách phát triển xe dung tích nhỏ tiết kiệm nhiên liệu, tăng sản xuất xe điện hóa, hoặc mua tín chỉ carbon từ các hãng xe thuần điện.
TS. Nguyễn Đức Độ: Tiêu dùng và đầu tư – Động lực phục hồi kinh tế

TS. Nguyễn Đức Độ: Tiêu dùng và đầu tư – Động lực phục hồi kinh tế

TS. Nguyễn Đức Độ chỉ ra rằng những dấu hiệu tích cực của nên kinh tế Việt Nam, đồng thời cũng chỉ ra các thách thức tiềm ẩn từ biến động toàn cầu.
Thể chế hóa đổi mới sáng tạo - Nền móng phát triển kinh tế

Thể chế hóa đổi mới sáng tạo - Nền móng phát triển kinh tế

Việc thể chế hoá đổi mới sáng tạo và bảo vệ tài sản vô hình là chìa khóa để thúc đẩy kinh tế tư nhân và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Hướng tới một thị trường tiêu dùng thông minh và có trách nhiệm

Hướng tới một thị trường tiêu dùng thông minh và có trách nhiệm

Diễn đàn Tiếp thị và Tiêu dùng Việt Nam 2025 là cơ hội để các bên liên quan cùng tìm kiếm giải pháp, định hình xu hướng mới cho thị trường nội địa.
Tổng Bí thư Tô Lâm: Kinh tế tư nhân là động lực phát triển hạ tầng trọng yếu

Tổng Bí thư Tô Lâm: Kinh tế tư nhân là động lực phát triển hạ tầng trọng yếu

Sáng 10/9, chủ trì buổi làm việc của Bộ Chính trị với Ban Thường vụ Đảng ủy Chính phủ, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện thể chế phát triển trong nhiệm kỳ tới, gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền kiến tạo, liêm chính, hành động, phục vụ nhân dân.
Sàn giao dịch carbon: Cơ hội vàng cho doanh nghiệp Việt

Sàn giao dịch carbon: Cơ hội vàng cho doanh nghiệp Việt

Việc hình thành sàn giao dịch carbon trong nước là bước đi chiến lược, nhưng cần có chính sách đồng bộ, rõ ràng để thị trường vận hành hiệu quả và bền vững.
Thủ tướng chỉ đạo đa dạng hoá thị trường xuất khẩu gạo

Thủ tướng chỉ đạo đa dạng hoá thị trường xuất khẩu gạo

Ngày 9/9, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Công điện số 160/CĐ-TTg ngày 09/9/2025, yêu cầu các bộ, ngành và địa phương triển khai đồng bộ các biện pháp nhằm ổn định thị trường gạo trong nước, thúc đẩy xuất khẩu và bảo đảm lợi ích của nông dân, doanh nghiệp.