Ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinGroup và FiinRatings |
Ông có thể chia sẻ những đánh giá của mình về tình hình thị trường vốn Việt Nam trong năm 2024?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Thị trường vốn Việt Nam năm 2024 kết thúc trong bối cảnh Việt Nam duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng, lãi suất thấp để hỗ trợ nền kinh tế; giao chỉ tiêu tín dụng ngay từ đầu năm cho các NHTM và cho phép NHTM tự điều chỉnh room tín dụng dựa trên xếp hạng tín nhiệm của NHNN quy định; Tái cơ cấu kỳ hạn trả nợ, miễn giảm lãi suất cho người dân, doanh nghiệp tại 26 tỉnh thành chịu ảnh hưởng của bão lũ; Gia hạn Thông tư 06 về cơ cấu lại kỳ hạn trả nợ giữ nguyên nhóm nợ đến 31/12/2024.
Chúng ta hãy cùng điểm qua 03 kênh vốn chính của doanh nghiệp Việt Nam:
Với kênh tín dụng ngân hàng, mức tăng trưởng tín dụng 12,5% tính đến ngày 07/12/2024 cho thấy những nỗ lực rõ rệt của Chính phủ trong việc thực hiện chủ trương nới lỏng tiền tệ nhằm hỗ trợ nền kinh tế. Chính sách này đã giúp kích thích dòng vốn trong thị trường, tạo động lực phục hồi sản xuất kinh doanh và tăng cường sức mua tiêu dùng nội địa, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu vẫn còn nhiều thách thức. Tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ không chỉ là tín hiệu tích cực cho hoạt động ngân hàng mà còn đóng góp vào ổn định kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, chúng tôi muốn lưu ý một số yếu tố rủi ro chúng đó có sự tiếp tục tăng trưởng khá cao của tín dụng cho chủ đầu tư bất động sản trong bối cảnh nợ xấu gộp ra tăng và ngành bất động sản chưa khẳng định rõ nét sự phục hồi. Xét riêng 9 tháng đầu năm 2024 thì tín dụng cho chủ đầu tư bất động sản tăng trưởng khoảng 16,6% trong khi tín dụng toàn ngành tăng truowntr 8,5%.
Ngoài ra, số liệu của chúng tôi cho thấy dư nợ tín dụng cá nhân có mức tăng trưởng rất thấp. Điều này do tiêu dùng cá nhân chưa phục hồi như kỳ vọng do phần lớn tích lũy của người dân đã sử dụng trong thời gian giãn cách xã hội vì đại dịch Covid 19; Thu nhập của người lao động không theo kịp tốc độ tăng giá cả tiêu dùng; Tỷ lệ tíết kiệm trong dân cư có xu hướng gia tăng (tiền gửi cá nhân trong hệ thống ngân hàng tiếp tục tăng) nhằm tích lũy mua BDS nhà ở (thê hiện qua giá cả BDS tiếp tục tăng nhanh, duy trì ở mức 35 năm thu nhập bình quân của hộ gia đình). Nhu cầu đầu tư vào các thị trường tài sản như vàng, tài sản số tiếp tục tăng mạnh qua các năm.
Trên thị trường TPDN, tổng giá trị phát hành mới đạt khoảng 442 ngàn tỷ VND (tính đến hết ngày 26/12/2024), tức tăng khoảng 26% so với 2023. Đây là một kết quả ấn tượng của năm 2024 và khẳng định vai trò của kênh vốn TPDN cho sự phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trái phiếu ngân hàng chiếm tỷ trọng vẫn còn lớn, tới 67% tổng giá trị phát hành năm 2024 và do đó, mức độ và quy mô huy động của các doanh nghiệp phi ngân hàng vẫn còn rất khiêm tốn: khoảng 101 ngàn tỷ VNĐ năm 2024.
Điểm tích cực là thị trường TPDN đã có sự cải thiện lớn về minh bạch thông tin trong năm qua. Ngoài việc cải thiện thanh khoản trên thị trường thứ cấp trên HNX, nhiều doanh nghiệp được xếp hạng tín nhiệm hơn, đã có 02 lô trái phiếu đầu tiên được xếp hạng tín nhiệm, đã có 03 lô trái phiếu xanh theo chuẩn quốc tế, v.v.
Kênh huy động vốn cổ phần qua TTCK vẫn còn ở mức khiêm tốn. Số liệu của FiinGroup cho thấy tổng giá trị vốn cổ phần huy động thực tế bằng tiền trên TTCK đạt hơn 75 ngàn tỷ đồng (cập nhật đến ngày 27/12/2024), tương đương quy mô huy động của cả năm 2023. Con số thực tế của năm 2024 có thể cao hơn khi các đợt phát hành trong năm được cập nhật đầy đủ, nhưng sẽ tiếp tục kém xa kết quả đạt được cho giai đoạn 2021-2022 (bình quân 110 nghìn tỷ đồng/năm) trong bối cảnh thị trường chứng khoán cơ bản đi ngang và thanh khoản chưa sôi động như kỳ vọng trong năm 2024.
Vậy theo ông, những xu hướng nào sẽ nổi bật và tác động mạnh mẽ đến thị trường vốn Việt Nam trong năm 2025?
Ông Nguyễn Quang Thuân: Thứ nhất, về yếu tố nguồn cung tín dụng, chung tôi cho rằng ngành ngân hàng vẫn sẽ duy trì tăng trưởng cao năm 2025 nhằm hỗ trợ mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao. NHNN sẽ tiếp tục cho phép các tổ chức tín dụng chủ động điều chỉnh tăng thêm dư nợ mà không cần đề nghị cơ quan quản lý. Chính sách này không chỉ tăng tính linh hoạt cho các ngân hàng mà còn giúp dòng vốn chảy nhanh hơn đến các lĩnh vực cần thiết, kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp và người dân.
Thứ hai, yếu tố quan trọng tác động đến thị trường vốn Việt Nam là vấn đề tỷ giá và lãi suất. Chúng tôi cho rằng ap lực về tỷ giá và lãi suất là vẫn còn lớn trong ngắn hạn (ít nhất là nửa đầu 2025). Lý do là Fed đang có quan điểm khá thận trọng với lạm phát trong khả năng đưa lạm phát về mức mục tiêu 2% từ năm 2024. Hiện quan điểm chung của giới phân tích là Fed dự kiến sẽ chậm lại lộ trình giảm lãi suất 2025 và USD neo ở mức cao. Do đó, áp lực tỷ giá vẫn cao ở nhiều nền kinh tế, đặc biệt là khu vực Châu Á bao gồm Việt Nam chúng ta.
Lãi suất huy động và cho vay sẽ chịu áp lực từ rủi ro nợ xấu tăng cao (khi Thông tư 06 hết hiệu lực, thị trường BDS chưa hồi phục, thu nhập và sức mua của người dân chưa thực sự được cải thiện, áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt từ thương mại điện tử xuyên biên giới,…). Áp lực tỷ giá tiếp tục gia tăng cùng với nhu cầu gia tăng đầu tư vào vàng và các tài sản số.
Thứ ba, việc chuẩn bị cho việc triển khai áp dụng Luật Chứng khoản mới đi vào hiệu lực từ đầu năm 2026 cũng sẽ từng bước góp phần cải thiện lòng tin của nhà đầu tư qua các kênh vốn trên TTCK và đặc biệt là TPDN khi mà các yêu cầu và điều kiện phát hành cũng như minh bạch thông tin với yêu cầu mới. Riêng trên thị trường TPDN, chúng tôi kỳ vọng giá trị phát hành sẽ tiếp tục tăng trưởng ở tốc độ cao và cao hơn năm 2024 do nhu cầu huy động vốn cấp 2 của các NHTM cũng như nhiều doanh nghiệp phi tài chính sẽ khởi động triển khai dự án nhờ cải thiện về môi trường pháp lý như Bất động sản, Năng lượng và Tiện tích, v.v.
Thứ tư, cầu về tín dụng và huy động vốn sẽ tiếp tục tăng từ một số ngành chủ chốt của Việt Nam như bất động sản khu công nghiệp (ăn theo tăng trưởng FDI), bất động sản dân cư (nhờ sự cải thiện về tiến trình tháo gỡ pháp lý dự án) và đặc biệt là ngành năng lượng tái tạo (nhờ việc quyết liệt triển khai Quy hoạch Điện 8 nhằm đối phó với rủi ro thiếu điện vào năm 2026). Ngoài ra, chúng tôi cũng kỳ vọng sự cải thiện từ cầu tín dụng tiêu dùng, vốn chưa khôi phục trong giai đoạn từ COVID-19 đến nay.
Thứ năm, sự phát triển mạnh mẽ hơn của trái phiếu xanh và tín dụng xanh. Chúng tôi kỳ vọng Khung phân loại trái phiếu xanh và tín dụng xanh sẽ sớm được Chính phủ ban hành trong năm 2025 nhằm tạo cơ sở phát triển tài chính bền vững tại Việt Nam cũng như thu hút vốn xanh vào các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện việc thực hiện phát hành trái phiếu xanh chủ yếu dựa trên nguyên tắc tự nguyện và chiếu theo các tiêu chuẩn quốc tế.
Sự hình thành của trái phiếu xanh như một giải pháp nhằm tăng chất lượng hàng hóa và thu hút vốn tốt hơn từ nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Trái phiếu xanh đạt tổng giá trị phát hành khoảng 6,87 ngàn tỷ và chiếm 2% tổng trái phiếu phi ngân hàng phát hành từ đầu năm 2024.
Theo thống kê của FiinRatings, có 18 lô phát hành trái phiếu xanh cho giai đoạn 2018-2023 và riêng trong giai đoạn 11 tháng đầu năm 2024 thị trường đã ghi nhận 04 giao dịch trái phiếu xanh được phát hành với tổng giá trị đạt 6,87 ngàn tỷ đồng có xác nhận đáp ứng tiêu chuẩn xanh quốc tế.
Xin cảm ơn ông về những chia sẻ!