GS. Trần Thọ Đạt: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam cần phải thận trọng PGS.TS Phạm Thế Anh: Rất khó để quay lại mức thuế cũ, Việt Nam phải thay đổi chiến lược |
Tại buổi tọa đàm chính sách đặc biệt phát triển công nghệ chiến lược quốc gia ngày 17/4, do Viện Kinh tế Việt Nam tổ chức, GS. TSKH Hồ Tú Bảo – Giám đốc Phòng thí nghiệm Khoa học dữ liệu của Viện Nghiên cứu Cao cấp về Toán – chia sẻ nhiều góc nhìn sâu sắc về hiện trạng và định hướng tương lai cho khoa học công nghệ tại Việt Nam.
GS. TSKH Hồ Tú Bảo mở đầu bằng cách phân biệt ba khái niệm quan trọng về loại hình nghiên cứu: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu phát triển. Các quốc gia tiên tiến đều xác định rõ tỷ lệ phần trăm của nguồn lực dành cho mỗi loại hình này, và có thể xem đó là cấu trúc của tổ chức nghiên cứu khoa học. Xác định các tỷ lệ này định hình chiến lược và cấu trúc của khoa học và công nghệ quốc gia. Ông nhấn mạnh rằng, để phát triển khoa học và công nghệ, chúng ta cũng cần có chiến lược và cụ thể như vậy.
GS. TSKH Hồ Tú Bảo dẫn số liệu từ các quốc gia phát triển, cho thấy rằng đa số quốc gia dành khoảng 2-3% GDP phân bổ cho khoa học công nghệ. Đặc biệt, các nước tiên tiến dành tới 3% GDP cho nghiên cứu khoa học, trong khi Hàn Quốc chi đến 4,9% GDP cho lĩnh vực này. Đặc biệt, Trung Quốc chỉ dành 6% cho nghiên cứu cơ bản và 83% cho nghiên cứu phát triển. Việt Nam hiện chưa có số liệu cụ thể, nhưng nhìn từ ngân sách đầu tư và hiệu quả ứng dụng vào sản xuất, ông cho rằng vẫn còn khoảng cách rất xa so với các nước tiên tiến.
![]() |
GS. TSKH Hồ Tú Bảo – Giám đốc Phòng thí nghiệm Khoa học dữ liệu của Viện Nghiên cứu Cao cấp về Toán. (Ảnh: Phan Chính) |
“Có bao nhiêu nhà khoa học thực sự gắn bó với sự phát triển của đất nước? Bao nhiêu người làm vì đam mê, vì chính sách, hay chỉ vì yêu cầu nghề nghiệp?” – GS. TSKH Hồ Tú Bảo đặt vấn đề và cho rằng cần nhìn nhận lại mối liên kết giữa nghiên cứu và sản xuất trong hệ sinh thái khoa học công nghệ Việt Nam.
Trước thực trạng khoa học còn nặng tính hàn lâm, thiếu gắn kết thực tiễn, GS. TSKH Hồ Tú Bảo đề xuất một mô hình đổi mới tư duy mang tên “KCC”, tuy chưa giải thích chi tiết, nhưng ông nhấn mạnh đây là cách tiếp cận toàn diện để nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia.
Ông cho biết, Việt Nam hiện còn thiếu những đề tài lớn, tầm chiến lược, trong khi đây là điều kiện tiên quyết để tạo ra đột phá về công nghệ và ứng dụng thực tế. Chúng ta cần thay đổi tư duy từ nghiên cứu hàn lâm sang nghiên cứu phục vụ sản xuất số – một xu thế tất yếu trong kỷ nguyên số hóa.
Theo GS. TSKH Hồ Tú Bảo, sản xuất số là cách xã hội tạo ra phương thức sản xuất mới, nơi dữ liệu đóng vai trò là tài nguyên, tri thức là lao động, và trí tuệ nhân tạo (AI) là công cụ chiến lược.
Ông nhấn mạnh, để sản xuất số phát triển, quốc gia cần xây dựng hạ tầng dữ liệu, bao gồm dữ liệu doanh nghiệp, dữ liệu xã hội và dữ liệu quốc gia.
"Quan hệ sản xuất và tư liệu sản xuất như vậy là tốt rồi, nhưng nếu không có dữ liệu và công nghệ hỗ trợ, chúng ta sẽ lạc hậu", ông nói.
Ông cho biết, AI hiện nay không chỉ là công nghệ mà còn là nhận thức mới trong sản xuất và phát triển xã hội, đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. AI không hoạt động độc lập – “AI bắt đầu từ dữ liệu”, ông nói – và nhờ vào dữ liệu, AI có thể học máy, phát hiện tri thức, và tạo ra giá trị gia tăng vượt trội.
GS.TSKH Hồ Tú Bảo phân tích, hai giá trị lớn nhất của AI là: Giúp con người khám phá trí tuệ mới từ dữ liệu; Tạo ra lợi nhuận và hiệu quả kinh tế rõ rệt trong sản xuất và kinh doanh.
Với cách nhìn sâu sắc và hệ thống như vậy, ông kêu gọi cần có chính sách phát triển công nghệ tầm quốc gia, trong đó ưu tiên xây dựng hạ tầng số, hệ thống dữ liệu quốc gia, và kết nối chặt chẽ giữa các nhà khoa học – doanh nghiệp – cơ quan quản lý.
Tư duy đổi mới của GS. TSKH Hồ Tú Bảo cho thấy một tầm nhìn chiến lược và cấp thiết cho khoa học công nghệ Việt Nam hiện nay. Muốn phát triển bền vững, Việt Nam cần thay đổi từ gốc – từ tư duy, mô hình đến chính sách, trong đó dữ liệu và trí tuệ nhân tạo sẽ là hai trụ cột quan trọng. Bài toán không chỉ nằm ở đầu tư ngân sách, mà nằm ở cách chúng ta ứng xử với tri thức và công nghệ trong thời đại mới.