Thứ ba 17/12/2024 15:57
Hotline: 024.355.63.010
Email: banbientap.dnhn@gmail.com
Góc nhìn Chuyên gia

GS. TS. Hoàng Xuân Cơ: Thảm họa môi trường Formosa là “bài học” cho doanh nghiệp ngành Thép

06/10/2023 11:35
Theo GS. TS Hoàng Xuân Cơ - nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu quan trắc và mô hình hóa môi trường, ĐH Khoa học Tự nhiên, vụ thảm họa môi trường Formosa (Hà Tĩnh) năm 2016 là một bài học cho các doanh nghiệp ngành Thép.

Tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc năm 2021 - COP 26, Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ về biến đổi khí hậu. Trong đó, lĩnh vực sản xuất công nghiệp là đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Ông có nhận định gì về vấn đề này?

GS.TS Hoàng Xuân Cơ: Tại COP 26, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã từng đề cập tới việc sử dụng than trong sản xuất và đặt mục tiêu đến năm 2050, Việt Nam sẽ đạt phát thải ròng khí nhà kính bằng 0.

Vậy phát thải ròng là gì? Phát thải ròng là phát thải khí nhà kính vào không khí. Theo định nghĩa của Liên hợp quốc, net zero - phát thải ròng bằng 0 nghĩa là cắt giảm lượng phát thải khí nhà kính xuống càng gần bằng 0 càng sớm càng tốt. Lượng khí thải còn lại cũng phải được hấp thụ lại vào bầu khí quyển bởi đại dương và rừng.

Hiện nay, Việt Nam đang có phát thải ròng lớn hơn 0, tức là lượng phát thải lớn hơn lượng hấp thụ trong không khí. Việc nước ta có đạt được như cam kết tại COP 26 hay không còn phải phụ thuộc vào 2 yếu tố.

Ảnh minh họa
GS.TS Hoàng Xuân Cơ - nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu quan trắc và mô hình hóa môi trường, ĐH Khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội.

Đầu tiên, COP 26 đang nỗ lực đi đến một thỏa thuận giảm sản xuất nhiệt điện dùng than và đưa vào điều kiện là từ năm 2030 là không xây dựng các nhà máy dùng than. Tuy nhiên, điều này không đưa được vào cam kết vì 2 quốc gia tỷ dân - Trung Quốc và Ấn Độ phản đối đến tận cùng. Các quốc gia này chỉ cam kết hạn chế việc sử dụng than sản xuất điện, không cấm hoàn toàn.

Thứ hai, Việt Nam có điều kiện tốt để phát triển các loại hình năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió…Đây là một trong những căn cứ được Thủ tướng cho rằng nước ta có cơ sở để chuyển dần dần việc không sử dụng nhiệt điện than.

Tuy nhiên, việc chuyển đổi cũng sẽ gây một áp lực rất lớn cho ngành điện vì hiện tại, giá của điện gió và điện mặt trời cao. Do đó, nhà nước phải trợ giá, yêu cầu EVN mua điện gió và điện mặt trời. Khi EVN mua với giá cao hơn, giá bán sẽ bị đẩy lên, đè nặng chi phí lên người dân, doanh nghiệp sản xuất…

Lâu nay, EVN chủ yếu sử dụng 2 nguồn lớn là điện than và thủy điện. Đây là nguồn điện tương đối ổn định trong khi điện gió, điện mặt trời có độ ổn định thấp hơn.

Tác động của CBAM (Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon) đối với hoạt động sản xuất, xuất khẩu thép của Việt Nam sang EU là một thách thức không nhỏ, nếu xét về ngắn và trung hạn. Vậy theo ông, các doanh nghiệp Việt Nam cần ứng biến thế nào với quy định này?

GS.TS Hoàng Xuân Cơ: Xét về kinh tế, Việt Nam là nước nhỏ và chịu rất nhiều áp lực từ các nước phát triển. Các quốc gia này có kinh tế giàu mạnh hơn, sẵn sàng đưa ra rất nhiều chính sách áp đặt cho các nước phát triển như Việt Nam.

Do nền kinh tế của nước ta còn yếu nên muốn “chơi” với các quốc gia này, chúng ta phải tuân thủ “luật chơi” của họ. Những “luật chơi” này đều dựa trên một lý do là chống biến đổi khí hậu.

Trong thương mại toàn cầu, khi vào cuộc, chúng ta buộc phải chấp nhận từng yêu cầu nhỏ nhất. CBAM cho phép các nước châu Âu đánh thuế một số mặt hàng nhập về dựa trên khả năng giảm phát thải khí nhà kính, bao gồm ngành Thép, xi măng,…

Rõ ràng, đây là vấn đề rất lớn, chúng ta cần phải chú ý. Lý do là nhà nước vẫn chưa quản lý chặt chẽ nhiều ngành sản xuất. Những đơn vị này phải tự chuẩn bị sẵn và có lộ trình để đối phó với các quy định mới này nếu muốn mang sản phẩm của mình vào các nước thuộc EU.

Ví dụ, ở Trung Quốc, nếu áp dụng CBAM trong ngành Thép, chi phí xuất khẩu sẽ tăng từ 4 - 6 %; tương đương 200 đến 400 triệu USD (theo số liệu nghiên cứu mới nhất của Đại học Nhân dân Trung Quốc). Tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào cụ thể về lĩnh vực này.

Tôi cho rằng ngành Thép Việt Nam phải có những nghiên cứu cụ thể hơn, không nên ở thế bị động.

Một trong những vấn đề của sản xuất thép là phải sử dụng than cốc, đây là loại than có hàm lượng Carbon rất cao. Vậy nên, chắc chắn ngành thép sẽ bị áp đặt rất nhiều khi CBAM có hiệu lực.

Để tính được lượng phát thải nhà kính trong ngành thép, doanh nghiệp phải mời chuyên gia nước ngoài vì cách tính của Việt Nam không được công nhận.

Hiện Việt Nam đang xây dựng lộ trình trung hòa carbon. Ông có đánh giá như thế nào về vấn đề này. Liệu nước ta có thực hiện được “bài toán” đặt ra hay không?

GS.TS Hoàng Xuân Cơ: Mục tiêu của COP 26 là đạt Net Zero vào năm 2050. Do đó, chúng ta phải thành lập một tổ nhóm hoặc một hội đồng để thảo luận với nhau về cách tính nguồn phát thải của Việt Nam để được thế giới công nhận.

Trong giai đoạn đầu, nước ta sẽ phải mời các chuyên gia nước ngoài tham gia đánh giá. Để được các tổ chức quốc tế công nhận, Việt Nam phải làm đúng cách.

Hiện nhiều địa phương hiện vẫn loay hoay trong công tác quản lý bảo vệ môi trường khi cấp phép dự án cho các doanh nghiệp sản xuất, nhất là các nhà máy có sử dụng than cốc trong hoạt động của mình. Liệu hoạt động này có còn phù hợp với tình hình thực tế nữa hay không?

GS.TS Hoàng Xuân Cơ: Bài toán này có liên quan đến ba đối tượng. Thứ nhất là chính quyền địa phương - nơi có cơ sở sản xuất và tiêu thụ than cốc; thứ hai là cơ sở sản xuất; thứ ba là tổ chức giám sản toàn bộ hệ thống.

Hiện nay, cách vận hành của chúng ta đang thiếu sự đồng bộ, rất khó quản lý. Một mặt, đơn vị sản xuất luôn khẳng định không vi phạm và luôn đảm bảo bảo vệ môi trường. Trong khi đó, chính quyền địa phương lại lúng túng, không biết xử lý. Ngược lại, các nhà khoa học của chúng ta chưa có cơ sở nghiên cứu. Vì vậy, nên cơ sở sản xuất chỉ cần có đánh giá tác động môi trường (ĐTM) là được chấp thuận.

Hiện tại, chúng ta vẫn chưa làm rõ được việc sử dụng than cốc có tác động cỡ nào tới môi trường, việc này khiến các địa phương rất lúng túng.

Thêm vào đó, để làm được điều này, chúng ta cần phải có kinh phí và làm “đến nơi đến chốn”. Hiện tại, nếu các đơn vị sản xuất không chịu chi, các cơ quan chính quyền cũng không còn cách nào khác.

Ở một số nước trên thế giới, các cơ quan địa phương sẽ yêu cầu nhà máy phải đối thoại để tìm cách thống nhất. Nếu không, các đơn vị này sẽ phải tìm đối tác thứ ba để xác minh rõ ràng. Nếu có ảnh hưởng đến môi trường, doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm kinh phí mời các nhà khoa học đến, mang theo thiết bị hiện đại đến xét nghiệm, đánh giá để đưa ra câu trả lời.

Tại Việt Nam, các chính quyền rất khó đánh giá tác động tới môi trường do không có nhà khoa học nào đứng ra khẳng định.

Nếu như việc thẩm định không “đến nơi đến chốn”, các dự án sẽ bị buông lỏng quản lý; vụ thảm họa môi trường Formosa năm 2016 là một ví dụ. Đây là vấn đề liên quan đến ngành thép. Thời điểm Formosa gây ra thảm họa, doanh nghiệp này chỉ có đánh giá tác động môi trường ĐTM. Trong khi đó, đây chỉ là đánh giá dự đoán, không có tính chính xác 100%.

Hiện nay, các nhà khoa học cũng chỉ chờ có sự kiện mới được vào cuộc. Thực tế, nhà nước cần phải sát sao hơn trong công tác môi trường. Tuy nhiên, làm được điều này không hề dễ.

Vậy để đáp ứng được các điều kiện của CBAM thì các nhà sản xuất Thép cần phải những làm gì, thưa ông?

GS.TS Hoàng Xuân Cơ: Hiện nay, các nhà khoa học cũng chưa có giải pháp cụ thể cho vấn đề này. Theo tôi, các nhà sản xuất thép cần phải đi tìm hiểu xem các điều kiện của CBAM đưa ra gồm những gì và tìm cách đáp ứng.

Ngành thép cũng cần có sự tự chuẩn bị, tham khảo từ các nhà khoa học, thuê các nhà khoa học tới làm việc. Bản thân ngành thép phải đưa ra các tiêu chí cụ thể để ứng phó với các quy định này của CBAM.

Thêm nữa, khó khăn nhất của chúng ta là thiếu cơ sở dữ liệu. Thực tế cũng cho thấy, chúng ta chưa chú ý nhiều đến môi trường. Cách tính của chúng ta cũng chưa rõ ràng, chưa được chuẩn hoá, dễ có sai số.

Ông có đề xuất nào trong việc đảm bảo cam kết COP 26 của Việt Nam hay không?

GS.TS Hoàng Xuân Cơ: Theo tôi, để thực hiện COP 26, chúng ta phải có Hội đồng khoa học ngay từ bây giờ. Đơn vị này sẽ tính phát thải ròng hàng năm để ứng phó kịp thời. Nói đơn giản hơn, chúng ta phải có lộ trình theo dõi một cách cụ thể và liên tục, không thể ngồi “đếm cua trong lỗ”.

Thêm vào đó, do có diện tích nhỏ, còn yếu về kinh tế, chúng ta buộc phải chấp nhận “luật chơi” khắc nghiệt khi bước ra thế giới. Các nước lớn sẽ liên tục áp đặt các điều kiện.

Ước tính, 20% dân số giàu đã tiêu thụ tới 80% năng lượng, tạo ra lượng phát thải cực lớn. Do đó, các nước giàu cần hỗ trợ các nước đang phát triển để cùng thực hiện COP 26.

Trước đó, Nghị định thư Kyoto năm 1997 cũng đã yêu cầu các quốc gia tham gia ký kết phải chấp nhận việc cắt giảm khí CO2 và năm loại khí gây hiệu ứng nhà kính khác, hoặc có thể tiến hành biện pháp thay thế như mua bán phát thải nếu không muốn đáp ứng yêu cầu đó.

Trân trọng cảm ơn ông!

Nghệ Nhân

Tin bài khác
Kinh nghiệm xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp từ Singapore

Kinh nghiệm xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp từ Singapore

Trong một cuộc trao đổi gần đây, ông Yayren Teo, Giám đốc Điều hành Mạng lưới Khởi nghiệp Singapore (GEN Singapore), đã chia sẻ những kinh nghiệm về việc xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp.
Chuyên gia Nguyễn Thành Hưng: Phát triển nhà ở xã hội cho thuê là bước đi để phát triển bền vững

Chuyên gia Nguyễn Thành Hưng: Phát triển nhà ở xã hội cho thuê là bước đi để phát triển bền vững

Phân tích những lợi ích loại hình nhà ở xã hội cho thuê đem lại, chuyên gia Nguyễn Thành Hưng - nguyên Vụ phó Vụ Quốc tế Văn phòng Chính phủ cho rằng đây là hướng đi vừa đáp ứng nhu cầu thiết thực của người dân, vừa góp phần giữ quỹ quỹ đất.
TS. Nguyễn Trí Hiếu: Thách thức và cơ hội nền kinh tế năm 2025

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Thách thức và cơ hội nền kinh tế năm 2025

TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng, chia sẻ những thách thức lớn và cơ hội tiềm năng của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh thế giới đầy biến động vào năm 2025.
Khai thác, sử dụng các nguồn vốn tiềm tàng 2 khu vực công và tư cho phát triển NOXH

Khai thác, sử dụng các nguồn vốn tiềm tàng 2 khu vực công và tư cho phát triển NOXH

NOXH với tư cách là tài sản xã hội ở Việt Nam đã và sẽ hình thành từ những nguồn lực nào? Đây là câu hỏi và nhiều câu trả lời từ tiềm năng toàn xã hội, theo ý kiến của chuyên gia tài chính, ngân hàng - TS. Nguyễn Đại Lai.
Chuyên gia truyền cảm hứng Christian Chua: Phát triển doanh nghiệp cần “học hỏi ngược”

Chuyên gia truyền cảm hứng Christian Chua: Phát triển doanh nghiệp cần “học hỏi ngược”

Tại buổi lễ vinh danh “Top Nhà tuyển dụng yêu thích 2024”, chuyên gia truyền cảm hứng quốc tế Christian Chua chia sẻ về cách tìm kiếm nhân sự tài năng và phương pháp học hỏi ngược để phát triển doanh nghiệp bền vững.
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh: Giá chung cư cao nhưng vẫn thu hút nhà đầu tư

PGS.TS Đinh Trọng Thịnh: Giá chung cư cao nhưng vẫn thu hút nhà đầu tư

Theo PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, Giảng viên cao cấp Học Viện Tài chính, giá chung cư Hà Nội tiếp tục tăng mạnh trong năm 2024, nhưng vẫn thu hút nhà đầu tư.
Tối ưu hóa mạng lưới sân bay: Phát triển sân bay nhỏ làm vệ tinh cho sân bay lớn

Tối ưu hóa mạng lưới sân bay: Phát triển sân bay nhỏ làm vệ tinh cho sân bay lớn

Đề xuất xây sân bay Măng Đen tại huyện Kon Plông, Kon Tum đang thu hút sự quan tâm của dư luận. PGS.TS Nguyễn Thiện Tống - chủ nhiệm ngành kỹ thuật hàng không, Trường đại học Văn Lang cho ý kiến xung quanh vấn đề này.
Cần cơ chế đặc thù phát triển nhà ở xã hội cho thuê

Cần cơ chế đặc thù phát triển nhà ở xã hội cho thuê

Theo Th.S Nguyễn Anh Quân - Viện trưởng IVES, đã đến lúc Việt Nam cần phải nghiên cứu và có những giải pháp phù hợp để phát triển NOXH cho thuê, nhằm đảm bảo an sinh xã hội, đặc biệt là cho những đối tượng có thu nhập thấp tại các tỉnh, thành phố trên cả nước.
Luật sư Trương Thanh Đức: Cần siết quản lý để chặn sở hữu chéo ngân hàng

Luật sư Trương Thanh Đức: Cần siết quản lý để chặn sở hữu chéo ngân hàng

Sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam mang đến nhiều rủi ro tiềm ẩn, đòi hỏi siết chặt quản lý và cải thiện pháp lý. Luật sư Trương Thanh Đức chia sẻ góc nhìn sắc sảo về vấn đề này và giải pháp kiểm soát hiệu quả.
GS. TS Đào Hùng: Luật tổ chức tín dụng mới là bước tiến lớn

GS. TS Đào Hùng: Luật tổ chức tín dụng mới là bước tiến lớn

Theo GS. TS Đào Văn Hùng, nguyên Giám đốc Học viện Chính sách và Phát triển, Luật Các tổ chức tín dụng mới là một bước tiến vượt bậc, đặc biệt là trong các vấn đề kiểm soát sở hữu chéo.
TS. Lê Xuân Nghĩa: Hoạt động góp vốn vào ngân hàng ngày càng minh bạch hơn

TS. Lê Xuân Nghĩa: Hoạt động góp vốn vào ngân hàng ngày càng minh bạch hơn

TS. Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia khẳng định, hiện nay hoạt động góp vốn của các ngân hàng đã minh bạch hơn so với trước đây.
Nhà đầu tư giàu tiềm lực, tâm huyết sẽ đưa Cát Bà thành đảo du lịch xanh toàn diện

Nhà đầu tư giàu tiềm lực, tâm huyết sẽ đưa Cát Bà thành đảo du lịch xanh toàn diện

PGS. TS Phạm Trung Lương, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, thành viên Tổ chuyên gia tư vấn Quy hoạch quốc gia vẫn đau đáu về việc du lịch Cát Bà chưa thay đổi nhiều, kể từ sau khi ông cùng nhiều chuyên gia xây dựng bản đề án đóng góp cho phát triển du lịch Hải Phòng cách đây hơn chục năm.
“Áp thuế cao mua bán nhà đất ngắn hạn làm giảm tính thanh khoản thị trường”

“Áp thuế cao mua bán nhà đất ngắn hạn làm giảm tính thanh khoản thị trường”

Liên quan đến đề xuất đánh thuế chuyển nhượng bất động sản theo thời gian sở hữu, Luật sư Nguyễn Thanh Hà cho rằng, nếu việc áp thuế cao với các giao dịch ngắn hạn có thể làm giảm tính thanh khoản của thị trường, đặc biệt trong bối cảnh những người cần bán gấp có thể chịu thiệt thòi.
Vấn đề thách thức của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Vấn đề thách thức của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Ông Nguyễn Bá Diệp, đồng sáng lập và là Phó chủ tịch MOMO chia sẻ một số vấn đề mang tính thách thức với các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo hiện nay, trong đó có sự thiếu hợp lý trong quản lý nhà nước với khởi nghiệp sáng tạo khi mà một doanh nghiệp có đến 4 Bộ quản lý.
Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao: Nâng cao chất lượng lúa và thương hiệu gạo Việt Nam

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao: Nâng cao chất lượng lúa và thương hiệu gạo Việt Nam

Lợi ích lớn nhất của "Đề án phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030" là nâng cao được chất lượng lúa và thương hiệu gạo Việt Nam, theo TS. Trần Minh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn.