Sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sẽ tiếp tục giảm do thiếu hụt nguồn cung Xuất khẩu cà phê: Lượng giảm, giá tăng Xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 9,3 tỷ USD hai tháng đầu năm 2025 |
![]() |
Doanh nghiệp xuất khẩu chủ động tìm đường cho cà phê Việt vươn ra thế giới |
Thời gian qua, cà phê Buôn Ma Thuột luôn đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của ngành hàng cà phê Việt Nam. Với truyền thống canh tác cà phê hơn 100 năm và nhanh chóng tiếp thu thành tựu công nghệ mới trong chế biến, cùng với hạ tầng cơ sở tốt, ngành hàng có độ mở cao, khả năng liên kết chuỗi, kinh nghiệm và quan hệ thị trường... là những lợi thế cho phép Đắk Lắk có thể phát triển thành công phân khúc cà phê Robusta đặc sản.
Theo thông tin tại Hội nghị giao thương quốc tế - Kết nối, nâng tầm cà phê Việt tổ chức tại TP. Buôn Ma Thuột vừa qua, ông Nguyễn Tuấn Hà, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Đắk Lắk cho biết: Từ năm 2020 - 2024, tỉnh Đắk Lắk xuất khẩu được 1,425 triệu tấn cà phê, chiếm 18,1% so với cả nước; kim ngạch xuất khẩu đạt gần 3,369 tỷ USD, chiếm 17% so với cả nước. Tuy nhiên, hàng năm, khối lượng xuất khẩu cà phê trực tiếp của tỉnh vẫn thấp so với sản lượng do thiếu các doanh nghiệp, đầu mối xuất khẩu lớn, chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc phát triển vùng nguyên liệu còn gặp nhiều khó khăn và chưa được quan tâm đúng mức.
Mặt khác, Quy định chống phá rừng châu Âu (EUDR) đã được Nghị viện châu Âu thông qua được đánh giá vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho cà phê Buôn Ma Thuột nói riêng và ngành hàng cà phê Việt Nam nói chung, đáp ứng các yêu cầu về phát triển xanh, nhanh và bền vững. Về kế hoạch triển khai các hoạt động hỗ trợ thích ứng với Quy định EUDR đối với ngành hàng cà phê Việt Nam, ông Nguyễn Quốc Mạnh - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết: Quy định EUDR yêu cầu các sản phẩm liên quan đến cà phê và cao su phải được sản xuất phù hợp với các quy định pháp luật của quốc gia sản xuất và không được trồng trên diện tích đất có nguồn gốc từ việc phá rừng sau ngày 31/12/2020 và quá trình sản xuất không được dẫn đến mất rừng hay suy thoái rừng sau ngày này.
Ngoài ra, các nhà cung cấp và nhập khẩu sản phẩm cà phê và cao su có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin và đảm bảo khả năng truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm họ cung cấp hoặc nhập khẩu vào thị trường Liên minh châu Âu (EU). EU cần cung cấp thông tin liên quan đến vùng trồng của sản phẩm vào “hệ thống thông tin nền tảng” do EU thiết lập theo Điều 33 của Quy định EUDR.
Ông Nguyễn Quốc Mạnh thông tin, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã có kế hoạch hành động hỗ trợ thích ứng với Quy định EUDR. Trong năm 2025, dự kiến sẽ thực hiện các công việc như: Xây dựng các tài liệu truyền thông về EUDR; tổ chức tuyên truyền, phổ biến theo nhiều hình thức khác nhau đến cơ quan quản lý các cấp, các tác nhân trong các chuỗi giá trị ngành hàng; tổ chức các cuộc họp kỹ thuật chuyên sâu để phổ biến và giải đáp Quy định EUDR cho các tác nhân liên quan và xây dựng bộ quy tắc ứng xử để xử lý theo hướng nhân văn đối với các trường hợp đã gây mất rừng và suy thoái rừng để sản xuất nông nghiệp.
Từ góc độ doanh nghiệp, ông Thái Anh Tuấn - Tổng giám đốc Simexco Đắk Lắk, cho biết: Không chỉ EU, các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đang áp dụng những tiêu chuẩn nghiêm ngặt về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Việc đáp ứng các yêu cầu về truy xuất nguồn gốc và chất lượng là thách thức nhưng cũng là cơ hội để ngành cà phê Việt Nam nâng cao giá trị sản phẩm, hướng tới sản xuất bền vững.
Trước những rủi ro từ thị trường EU, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đang chủ động tìm hướng đi mới. Trung Đông, Nam Á, Bắc Mỹ đang nổi lên như những thị trường tiềm năng, giúp giảm phụ thuộc vào châu Âu. Bên cạnh đó, nhu cầu tiêu dùng đang thay đổi với xu hướng sử dụng cà phê hữu cơ, cà phê đặc sản ngày càng tăng.
Nhằm giúp doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu EUDR, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã triển khai hệ thống dữ liệu vùng trồng cà phê. Đến tháng 12/2024, hệ thống này do Cục Trồng trọt phối hợp với tổ chức IDH đã hoàn thành, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc chứng minh nguồn gốc và truy xuất sản phẩm. Tuy nhiên, để tận dụng cơ hội và giảm thiểu rủi ro, ngành cà phê Việt Nam cần có chiến lược dài hạn, tập trung vào phát triển bền vững, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Để cà phê tạo được dấu ấn trong lòng người tiêu dùng và ngày càng khẳng định được thương hiệu, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại Vũ Bá Phú cho rằng, sự đặc sắc, dấu ấn địa phương là yếu tố vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó, trong bối cảnh diện tích có hạn, cũng như năng suất, sản lượng đã đạt tới mức kế hạn, để gia tăng được giá trị của cà phê xuất khẩu đòi hỏi phải tập trung vào việc chế biến sâu và đặc biệt là định hình thương hiệu cho ngành cà phê.
Để định hình thương hiệu cho ngành cà phê Việt, trong thời gian tới, Bộ Công Thương cùng với Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam cũng như các đơn vị liên quan sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng một chiến lược toàn diện về nâng cao giá trị thương hiệu cũng như quảng bá hình ảnh cà phê của Việt Nam ra thế giới.
Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại Vũ Bá Phú cho rằng, không chỉ Đắk Lắk các địa phương có cà phê khác của Việt Nam như Quảng Trị, Sơn La, Điện Biên,... cũng phải tìm ra điểm khác biệt trong sản phẩm cà phê để tạo ra những hương vị đặc sắc riêng và chất liệu riêng.
Theo ông Vũ Bá Phú, phải có được sự riêng biệt mới tạo được dấu ấn trong lòng người tiêu dùng, từ đó phát huy điểm mạnh để quảng bá hình ảnh cà phê ra thế giới. Trong đó, Hội nghị giao thương quốc tế - Kết nối, nâng tầm cà phê Việt có sự tham dự của 800 đại biểu, trong đó có 200 khách mời quốc tế, Tổ chức Cà phê thế giới (ICO) và đối tác thương mại các nước đã tập trung thảo luận các nội dung chuyên sâu về ngành hàng cà phê như: Tình hình thị trường và xu hướng tiêu dùng cà phê thế giới; tình hình xuất khẩu cà phê niên vụ 2023 - 2024; nhận định xu thế thị trường và rào cản tiêu dùng cà phê thế giới hiện nay; định hướng thị trường cho ngành hàng cà phê Việt Nam; vai trò của doanh nghiệp trong việc nâng tầm cà phê Việt và xây dựng thương hiệu Cà phê Buôn Ma Thuột - Điểm đến cà phê của thế giới.
Đồng thời, đây là cơ hội giúp ngành cà phê tiếp cận kinh tế tuần hoàn, kinh tế trải nghiệm gắn kết tài nguyên bản địa với trải nghiệm văn hóa lịch sử địa phương. Bên cạnh đó, giúp ngành cà phê chủ động thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu, biến động thị trường và xu thế tiêu dùng.
Theo định hướng đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu mở rộng 11.000 ha cà phê đặc sản, sản lượng đạt 15.000 tấn/năm. Đồng thời, ngành cà phê đang đẩy mạnh chế biến sâu với các sản phẩm như cà phê hòa tan cao cấp, cà phê viên nén, RTD (ready-to-drink), gia tăng giá trị xuất khẩu. Thị trường nội địa là điểm sáng với mức tiêu thụ 270.000-300.000 tấn/năm, tăng trưởng ổn định 2-3%/năm. |