Thứ bảy 22/11/2025 15:20
Hotline: 024.355.63.010
Email: banbientap.dnhn@gmail.com
Góc nhìn Chuyên gia

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao: Nâng cao chất lượng lúa và thương hiệu gạo Việt Nam

Lợi ích lớn nhất của "Đề án phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030" là nâng cao được chất lượng lúa và thương hiệu gạo Việt Nam, theo TS. Trần Minh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn.
Bài liên quan
Triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao: Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang kêu gọi hợp tác quốc tế và tuân thủ kế hoạch
Việt Nam đang đứng ở thời điểm vàng để thực hiện đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú: Đồng bộ chính sách tín dụng ưu đãi cho Đề án 1 triệu ha lúa

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao: Nâng cao chất lượng lúa và thương hiệu gạo Việt Nam
TS. Trần Minh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao được Bộ NN&PTNT phối hợp các địa phương, tổ chức, DN triển khai 7 mô hình thí điểm tại 5 tỉnh, thành vùng ĐBSCL là Đồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh. Bước đầu, kết quả từ các mô hình thí điểm này đã mang lại hiệu quả cao, tăng lợi nhuận cho nông dân và giảm phát thải trong sản xuất lúa.

Phát triển hợp tác xã là nền tảng cốt lõi cho Đề án

Việc phát triển các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp được xác định là yếu tố cốt lõi để thực hiện thành công Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp. Đây là nhận định của ông Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn, trong một hội thảo gần đây.

Ông Hải nhấn mạnh, việc gia tăng số lượng thành viên HTX không chỉ là một giải pháp để mở rộng diện tích sản xuất mà còn tạo điều kiện áp dụng cơ giới hóa và công nghệ hiện đại vào nông nghiệp. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy, mỗi HTX ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chỉ có trung bình khoảng 80 thành viên, thấp hơn nhiều so với mức trung bình cả nước là 200 thành viên và con số 1.500 thành viên tại Thái Lan.

Để khắc phục hạn chế này, ông Hải đề xuất xây dựng các HTX vừa, với quy mô từ 50-100 thành viên. Mô hình này không chỉ phù hợp với yêu cầu của Luật HTX 2023 mà còn giúp nâng cao năng lực sản xuất, đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường trong và ngoài nước.

Theo ông Hải, khi các HTX trở thành những tổ chức mạnh, quản lý hiệu quả và đáp ứng tốt nhu cầu thị trường, chúng sẽ phát huy vai trò cốt lõi trong nền kinh tế nông thôn hiện đại. Những HTX đủ mạnh có thể xây dựng và phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp, tạo ra sản phẩm chất lượng cao, góp phần cải thiện đời sống thành viên và nâng cao hiệu quả sản xuất.

Ông cũng nhấn mạnh rằng sự phát triển của HTX cần song hành với các chính sách hỗ trợ từ phía Nhà nước và các tổ chức tài chính. Việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự liên kết giữa HTX và doanh nghiệp (DN) là rất cần thiết.

Để khuyến khích các DN hợp tác với HTX, Nhà nước cần hỗ trợ vốn, giảm lãi suất và triển khai các chính sách ưu đãi.

Ví dụ, tại Cần Thơ, UBND thành phố đã giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu, tham mưu các chính sách hỗ trợ lãi suất cho HTX và nông dân trong vùng Đề án 1 triệu ha.

Bên cạnh đó, ông Hải đề xuất các ngân hàng cần linh hoạt hơn trong việc giải ngân. Việc cho vay thông qua DN liên kết hoặc các tổ chức trung gian đại diện nông dân có thể là giải pháp tối ưu, giúp giảm thiểu rủi ro và tăng hiệu quả sử dụng vốn. Đây được xem là mô hình thế chấp theo chuỗi, đảm bảo sự an toàn cho các bên tham gia.

Đề án 1 triệu ha lúa tập trung vào giảm phát thải, không chỉ là tín chỉ carbon

Việc Ngân hàng Thế giới (WB) cam kết mua tín chỉ carbon với giá 10 USD/tín chỉ (tương đương 1 tấn carbon) đã làm dấy lên những kỳ vọng về khả năng mang lại nguồn thu nhập lớn từ tín chỉ carbon cho nông dân Việt Nam. Theo cách tính sơ bộ, với 1 triệu ha lúa, nông dân có thể thu về khoảng 100 triệu USD mỗi năm. Tuy nhiên, theo TS. Trần Minh Hải, quan điểm này đang bị "thổi phồng" và hiểu sai bản chất của đề án.

TS. Trần Minh Hải khẳng định: "Đề án 1 triệu ha mà các tỉnh đang triển khai không chỉ nhằm vào việc bán tín chỉ carbon. Đó là một cách hiểu chưa đúng". Ông giải thích, cơ chế cốt lõi của đề án là áp dụng ba quy trình giảm phát thải do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành, nhằm giảm lượng khí nhà kính phát sinh từ hoạt động sản xuất lúa gạo.

Ông Hải đưa ra tính toán cụ thể: Mỗi ha lúa mỗi vụ thường thu hoạch được khoảng 8 tấn lúa, đồng nghĩa với việc phát thải khoảng 8 tấn carbon. Nếu áp dụng đầy đủ các quy trình giảm phát thải, có thể giảm được tối đa 30%, tương đương 2,5 tấn carbon. Tuy nhiên, giá tín chỉ carbon trên thị trường vẫn chưa được xác định rõ ràng. Bộ Nông nghiệp đang làm việc với các tổ chức quốc tế, và mức giá dự kiến có thể là 20 USD/tín chỉ.

"Nếu giá là 20 USD, với 2 tấn carbon giảm được, nông dân sẽ chỉ thu về 40 USD mỗi ha mỗi vụ, tương đương khoảng 960.000 đồng. Như vậy, nếu chỉ tập trung vào bán tín chỉ carbon để tạo nguồn thu thì lợi nhuận sẽ rất hạn chế", ông Hải nhấn mạnh.

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao: Nâng cao chất lượng lúa và thương hiệu gạo Việt Nam
Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao: Nâng cao chất lượng lúa và thương hiệu gạo Việt Nam

Theo TS. Hải, mục tiêu quan trọng nhất của đề án 1 triệu ha lúa là xây dựng một nền nông nghiệp bền vững, giảm chi phí đầu vào, giảm tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe con người. Điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng lúa gạo và gia tăng giá trị thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Đề án cũng đặt trọng tâm vào việc tổ chức lại sản xuất trên quy mô lớn, đầu tư đồng bộ hạ tầng, tăng cường liên kết giữa hợp tác xã và doanh nghiệp. "Giảm chi phí trung gian và tăng thu nhập cho người nông dân mới là giá trị cốt lõi của đề án", TS. Hải phân tích.

Ông nhấn mạnh rằng việc áp dụng các phương pháp canh tác bền vững không chỉ mang lại lợi ích tài chính ngắn hạn mà còn tạo ra thặng dư lâu dài cho nền kinh tế nông nghiệp. Điều này bao gồm việc cải thiện hạ tầng, nâng cao năng lực sản xuất và bảo vệ môi trường, góp phần thúc đẩy vị thế gạo Việt Nam trên bản đồ xuất khẩu toàn cầu.

Tin bài khác
TS. Vũ Văn Ngọc: Doanh nghiệp Nhà nước phải cải tổ quản trị theo Temasek để tăng hiệu quả vốn

TS. Vũ Văn Ngọc: Doanh nghiệp Nhà nước phải cải tổ quản trị theo Temasek để tăng hiệu quả vốn

Theo TS. Vũ Văn Ngọc doanh nghiệp Nhà nước cần tập trung quyền chủ sở hữu, thuê CEO quốc tế và áp dụng chuẩn OECD để giải quyết xung đột đại diện.
Phát triển nông nghiệp đô thị: Mô hình quốc tế nào cho thực tiễn Việt Nam?

Phát triển nông nghiệp đô thị: Mô hình quốc tế nào cho thực tiễn Việt Nam?

Nông nghiệp đô thị đang được tiếp cận như một cấu phần của quy hoạch đô thị hiện đại. Ở nhiều quốc gia, mô hình này đã trở thành trụ cột trong chiến lược phát triển.
PGS. TS Phạm Trung Lương: “Với Da Nang Downtown, tôi kỳ vọng là du khách sẽ thức đến kiệt sức thì thôi”

PGS. TS Phạm Trung Lương: “Với Da Nang Downtown, tôi kỳ vọng là du khách sẽ thức đến kiệt sức thì thôi”

Đà Nẵng sau hợp nhất đang đứng trước vận hội vươn mình mạnh mẽ, đặc biệt là với sự tiếp sức từ những công trình trọng điểm đang được triển khai. Đặc biệt, siêu dự án Da Nang Downtown trị giá 80 ngàn tỷ đồng đang được kỳ vọng là "cú hích quan trọng" để đưa Đà Nẵng trở thành trung tâm du lịch hàng đầu châu Á.
Nguyên Thứ trưởng Đặng Huy Đông: Cơ chế đột phá cho doanh nghiệp nhà nước dẫn dắt chuyển đổi kép quốc gia

Nguyên Thứ trưởng Đặng Huy Đông: Cơ chế đột phá cho doanh nghiệp nhà nước dẫn dắt chuyển đổi kép quốc gia

Nguyên Thứ trưởng Đặng Huy Đông chỉ rõ, DNNN cần cơ chế thị trường, loại bỏ rủi ro công vụ để tiên phong dẫn dắt kinh tế trong đột phá công nghệ, chuyển đổi xanh và số.
TS. Lê Quang Thuận: Quản trị doanh nghiệp Nhà nước theo OECD để khơi thông 12 triệu tỷ vốn

TS. Lê Quang Thuận: Quản trị doanh nghiệp Nhà nước theo OECD để khơi thông 12 triệu tỷ vốn

Theo TS. Lê Quang Thuận,thách thức quản trị doanh nghiệp Nhà nước, khuyến nghị áp dụng các nguyên tắc OECD để nâng cao hiệu quả và tính minh bạch cho khu vực kinh tế chủ đạo.
TS. Nguyễn Trí Hiếu: Minh bạch thị trường vàng để khơi thông nguồn lực trong dân

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Minh bạch thị trường vàng để khơi thông nguồn lực trong dân

TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng Nghị định 232 mở đường cho cơ chế quản lý vàng minh bạch, giảm độc quyền và tạo niềm tin thị trường, từ đó từng bước giải phóng hàng trăm tấn vàng đang nằm im trong dân.
PGS. TS Ngô Trí Long: Sàn vàng là công cụ để quản lý thị trường

PGS. TS Ngô Trí Long: Sàn vàng là công cụ để quản lý thị trường

Chuyên gia Ngô Trí Long khẳng định sàn giao dịch vàng là cần thiết, giúp Nhà nước giám sát thời gian thực, minh bạch hóa dữ liệu, và điều tiết thị trường hiệu quả hơn.
TS. Cấn Văn Lực: Cần nhìn nhận lại mức độ “vàng hoá” nền kinh tế

TS. Cấn Văn Lực: Cần nhìn nhận lại mức độ “vàng hoá” nền kinh tế

TS. Cấn Văn Lực kiến nghị tách bạch vàng miếng khỏi vàng trang sức, minh bạch hóa dữ liệu, đồng thời cân nhắc mô hình giao dịch vàng qua Sở Giao dịch Hàng hóa để triệt tiêu đầu cơ.
PGS. TS Phạm Thế Anh: Cần nhanh chóng giải quyết bài toán giá nhà vượt xa thu nhập

PGS. TS Phạm Thế Anh: Cần nhanh chóng giải quyết bài toán giá nhà vượt xa thu nhập

PGS. TS Phạm Thế Anh kiến nghị cần nhanh chóng giải quyết bài toán giá nhà vượt xa thu nhập (khả năng chi trả) và áp dụng chính sách thuế để kiểm soát tình trạng đầu cơ tích trữ bất động sản.
GS.TS Bùi Tiến Thành: Phát triển hạ tầng thông minh quyết định tương lai đô thị Việt Nam

GS.TS Bùi Tiến Thành: Phát triển hạ tầng thông minh quyết định tương lai đô thị Việt Nam

GS.TS Bùi Tiến Thành nhấn mạnh Việt Nam chỉ có thể tạo bứt phá đô thị nếu nắm bắt quy luật phát triển hạ tầng hiện đại, khai thác mô hình giao thông thông minh và mở rộng không gian theo cấu trúc vệ tinh hiệu quả.
ThS Nguyễn Anh Dương: Tăng trưởng bền vững tạo nền tảng ổn định cho thị trường bất động sản

ThS Nguyễn Anh Dương: Tăng trưởng bền vững tạo nền tảng ổn định cho thị trường bất động sản

ThS Nguyễn Anh Dương nhấn mạnh Việt Nam đang đối diện nhiều bài toán kép về tăng trưởng, ổn định vĩ mô và phát triển bền vững, đòi hỏi thị trường bất động sản phải thích ứng linh hoạt và cải cách mạnh mẽ hơn.
GS.TS Nguyễn Thành Hiếu: Bất động sản hậu COVID tạo sức ép lớn lên tăng trưởng

GS.TS Nguyễn Thành Hiếu: Bất động sản hậu COVID tạo sức ép lớn lên tăng trưởng

GS.TS Nguyễn Thành Hiếu nhận định thị trường bất động sản hậu COVID đang bộc lộ nhiều điểm nghẽn nghiêm trọng, buộc nền kinh tế đối diện thách thức lớn nếu không kịp thời tháo gỡ những rủi ro tích tụ suốt nhiều năm.
PGS.TS. Ngô Thị Phương Thảo: Điều tiết thị trường bất động sản cần tìm "ngưỡng" an toàn vĩ mô

PGS.TS. Ngô Thị Phương Thảo: Điều tiết thị trường bất động sản cần tìm "ngưỡng" an toàn vĩ mô

Theo PGS. TS Ngô Thị Phương Thảo, thị trường bất động sản đang chuyển từ "tiền tệ hóa" sang "tài chính hóa" với tính chu kỳ rõ rệt, đặt ra thách thức lớn về an toàn hệ thống tài chính và khả năng tiếp cận nhà ở.
Hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới: Chủ động, chọn lọc và bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia

Hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới: Chủ động, chọn lọc và bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia

Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới được đánh giá là kim chỉ nam chiến lược, thể hiện tầm nhìn dài hạn của Việt Nam trong tiến trình hội nhập sâu rộng. Theo TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Vietnam, đây không chỉ là sự nối dài của đường lối mở cửa suốt ba thập niên qua, mà còn là bước chuyển mang tính bản lề: từ hội nhập để thích nghi sang hội nhập để định hình cuộc chơi.
TS. Cấn Văn Lực: 10.000 tỷ – tấm vé vào cuộc chơi tài sản số

TS. Cấn Văn Lực: 10.000 tỷ – tấm vé vào cuộc chơi tài sản số

TS. Cấn Văn Lực cho biết, Việt Nam có 21 triệu nhà đầu tư tài sản mã hóa với doanh số 200 tỷ USD, cần cơ chế vốn 10.000 tỷ và ủy thác đầu tư để giữ dòng vốn ở lại.