Thứ tư 12/11/2025 14:33
Hotline: 024.355.63.010
Góc nhìn Chuyên gia

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao: Nâng cao chất lượng lúa và thương hiệu gạo Việt Nam

Lợi ích lớn nhất của "Đề án phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030" là nâng cao được chất lượng lúa và thương hiệu gạo Việt Nam, theo TS. Trần Minh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn.
Bài liên quan
Triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao: Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang kêu gọi hợp tác quốc tế và tuân thủ kế hoạch
Việt Nam đang đứng ở thời điểm vàng để thực hiện đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú: Đồng bộ chính sách tín dụng ưu đãi cho Đề án 1 triệu ha lúa

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao: Nâng cao chất lượng lúa và thương hiệu gạo Việt Nam
TS. Trần Minh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao được Bộ NN&PTNT phối hợp các địa phương, tổ chức, DN triển khai 7 mô hình thí điểm tại 5 tỉnh, thành vùng ĐBSCL là Đồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh. Bước đầu, kết quả từ các mô hình thí điểm này đã mang lại hiệu quả cao, tăng lợi nhuận cho nông dân và giảm phát thải trong sản xuất lúa.

Phát triển hợp tác xã là nền tảng cốt lõi cho Đề án

Việc phát triển các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp được xác định là yếu tố cốt lõi để thực hiện thành công Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp. Đây là nhận định của ông Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn, trong một hội thảo gần đây.

Ông Hải nhấn mạnh, việc gia tăng số lượng thành viên HTX không chỉ là một giải pháp để mở rộng diện tích sản xuất mà còn tạo điều kiện áp dụng cơ giới hóa và công nghệ hiện đại vào nông nghiệp. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy, mỗi HTX ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chỉ có trung bình khoảng 80 thành viên, thấp hơn nhiều so với mức trung bình cả nước là 200 thành viên và con số 1.500 thành viên tại Thái Lan.

Để khắc phục hạn chế này, ông Hải đề xuất xây dựng các HTX vừa, với quy mô từ 50-100 thành viên. Mô hình này không chỉ phù hợp với yêu cầu của Luật HTX 2023 mà còn giúp nâng cao năng lực sản xuất, đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường trong và ngoài nước.

Theo ông Hải, khi các HTX trở thành những tổ chức mạnh, quản lý hiệu quả và đáp ứng tốt nhu cầu thị trường, chúng sẽ phát huy vai trò cốt lõi trong nền kinh tế nông thôn hiện đại. Những HTX đủ mạnh có thể xây dựng và phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp, tạo ra sản phẩm chất lượng cao, góp phần cải thiện đời sống thành viên và nâng cao hiệu quả sản xuất.

Ông cũng nhấn mạnh rằng sự phát triển của HTX cần song hành với các chính sách hỗ trợ từ phía Nhà nước và các tổ chức tài chính. Việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự liên kết giữa HTX và doanh nghiệp (DN) là rất cần thiết.

Để khuyến khích các DN hợp tác với HTX, Nhà nước cần hỗ trợ vốn, giảm lãi suất và triển khai các chính sách ưu đãi.

Ví dụ, tại Cần Thơ, UBND thành phố đã giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu, tham mưu các chính sách hỗ trợ lãi suất cho HTX và nông dân trong vùng Đề án 1 triệu ha.

Bên cạnh đó, ông Hải đề xuất các ngân hàng cần linh hoạt hơn trong việc giải ngân. Việc cho vay thông qua DN liên kết hoặc các tổ chức trung gian đại diện nông dân có thể là giải pháp tối ưu, giúp giảm thiểu rủi ro và tăng hiệu quả sử dụng vốn. Đây được xem là mô hình thế chấp theo chuỗi, đảm bảo sự an toàn cho các bên tham gia.

Đề án 1 triệu ha lúa tập trung vào giảm phát thải, không chỉ là tín chỉ carbon

Việc Ngân hàng Thế giới (WB) cam kết mua tín chỉ carbon với giá 10 USD/tín chỉ (tương đương 1 tấn carbon) đã làm dấy lên những kỳ vọng về khả năng mang lại nguồn thu nhập lớn từ tín chỉ carbon cho nông dân Việt Nam. Theo cách tính sơ bộ, với 1 triệu ha lúa, nông dân có thể thu về khoảng 100 triệu USD mỗi năm. Tuy nhiên, theo TS. Trần Minh Hải, quan điểm này đang bị "thổi phồng" và hiểu sai bản chất của đề án.

TS. Trần Minh Hải khẳng định: "Đề án 1 triệu ha mà các tỉnh đang triển khai không chỉ nhằm vào việc bán tín chỉ carbon. Đó là một cách hiểu chưa đúng". Ông giải thích, cơ chế cốt lõi của đề án là áp dụng ba quy trình giảm phát thải do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành, nhằm giảm lượng khí nhà kính phát sinh từ hoạt động sản xuất lúa gạo.

Ông Hải đưa ra tính toán cụ thể: Mỗi ha lúa mỗi vụ thường thu hoạch được khoảng 8 tấn lúa, đồng nghĩa với việc phát thải khoảng 8 tấn carbon. Nếu áp dụng đầy đủ các quy trình giảm phát thải, có thể giảm được tối đa 30%, tương đương 2,5 tấn carbon. Tuy nhiên, giá tín chỉ carbon trên thị trường vẫn chưa được xác định rõ ràng. Bộ Nông nghiệp đang làm việc với các tổ chức quốc tế, và mức giá dự kiến có thể là 20 USD/tín chỉ.

"Nếu giá là 20 USD, với 2 tấn carbon giảm được, nông dân sẽ chỉ thu về 40 USD mỗi ha mỗi vụ, tương đương khoảng 960.000 đồng. Như vậy, nếu chỉ tập trung vào bán tín chỉ carbon để tạo nguồn thu thì lợi nhuận sẽ rất hạn chế", ông Hải nhấn mạnh.

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao: Nâng cao chất lượng lúa và thương hiệu gạo Việt Nam
Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao: Nâng cao chất lượng lúa và thương hiệu gạo Việt Nam

Theo TS. Hải, mục tiêu quan trọng nhất của đề án 1 triệu ha lúa là xây dựng một nền nông nghiệp bền vững, giảm chi phí đầu vào, giảm tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe con người. Điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng lúa gạo và gia tăng giá trị thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Đề án cũng đặt trọng tâm vào việc tổ chức lại sản xuất trên quy mô lớn, đầu tư đồng bộ hạ tầng, tăng cường liên kết giữa hợp tác xã và doanh nghiệp. "Giảm chi phí trung gian và tăng thu nhập cho người nông dân mới là giá trị cốt lõi của đề án", TS. Hải phân tích.

Ông nhấn mạnh rằng việc áp dụng các phương pháp canh tác bền vững không chỉ mang lại lợi ích tài chính ngắn hạn mà còn tạo ra thặng dư lâu dài cho nền kinh tế nông nghiệp. Điều này bao gồm việc cải thiện hạ tầng, nâng cao năng lực sản xuất và bảo vệ môi trường, góp phần thúc đẩy vị thế gạo Việt Nam trên bản đồ xuất khẩu toàn cầu.

Tin bài khác
TS. Cấn Văn Lực: 10.000 tỷ – tấm vé vào cuộc chơi tài sản số

TS. Cấn Văn Lực: 10.000 tỷ – tấm vé vào cuộc chơi tài sản số

TS. Cấn Văn Lực cho biết, Việt Nam có 21 triệu nhà đầu tư tài sản mã hóa với doanh số 200 tỷ USD, cần cơ chế vốn 10.000 tỷ và ủy thác đầu tư để giữ dòng vốn ở lại.
GS.TS Hoàng Văn Cường: Phát triển kinh tế tuần hoàn, bản thân các doanh nghiệp phải liên kết

GS.TS Hoàng Văn Cường: Phát triển kinh tế tuần hoàn, bản thân các doanh nghiệp phải liên kết

Chia sẻ với Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập, GS.TS Hoàng Văn Cường - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, muốn phát triển kinh tế tuần hoàn, bản thân các doanh nghiệp phải liên kết với nhau, phải tạo ra sự kết nối.
Cần kiến tạo thị trường tín chỉ carbon, bảo lãnh tín dụng xanh cho doanh nghiệp SME

Cần kiến tạo thị trường tín chỉ carbon, bảo lãnh tín dụng xanh cho doanh nghiệp SME

Để chuyển đổi xanh trở thành động lực cạnh tranh, Nhà nước cần phát triển thị trường tín chỉ carbon, trái phiếu xanh, đồng thời xây dựng cơ chế bảo lãnh tín dụng giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn xanh - theo ông Đậu Anh Tuấn – Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
Chuyên gia Tô Trần Hòa: Việt Nam sẵn sàng thể chế hóa để bứt phá thị trường tài sản mã hóa

Chuyên gia Tô Trần Hòa: Việt Nam sẵn sàng thể chế hóa để bứt phá thị trường tài sản mã hóa

Việt Nam đang gấp rút hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho tài sản mã hóa theo Nghị quyết 05. Đây là cơ hội lớn để thu hút nguồn lực công nghệ và vốn ngoại, khẳng định vị thế khu vực.
TS. Nguyễn Minh Cường: Cần tự do hóa tài chính để huy động vốn hiệu quả

TS. Nguyễn Minh Cường: Cần tự do hóa tài chính để huy động vốn hiệu quả

Theo TS. Nguyễn Minh Cường, Việt Nam không thiếu vốn, nhưng chưa phân bổ và huy động hiệu quả. Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) phải là bước thí điểm cho chiến lược tự do hóa tài chính sâu rộng.
TS. Đinh Thế Hiển: Siêu lợi nhuận bất động sản đã kết thúc, thị trường xoay trục về nhu cầu thực

TS. Đinh Thế Hiển: Siêu lợi nhuận bất động sản đã kết thúc, thị trường xoay trục về nhu cầu thực

TS. Đinh Thế Hiển nhận định, thời kỳ siêu lợi nhuận bất động sản đã khép lại, thị trường đang chuyển hướng sang nhu cầu thực, buộc nhà đầu tư thay đổi tư duy.
TS. Phan Đức Hiếu: Việt Nam cần thể chế đột phá để IFC cạnh tranh toàn cầu

TS. Phan Đức Hiếu: Việt Nam cần thể chế đột phá để IFC cạnh tranh toàn cầu

Theo TS. Phan Đức Hiếu, Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) là bước đột phá thể chế để thu hút dòng vốn toàn cầu, hình thành môi trường kinh doanh cạnh tranh khu vực.
TS. Chử Đức Hoàng: Để phát triển chuỗi giá trị nông sản Việt, doanh nghiệp cần là đầu tàu dẫn dắt

TS. Chử Đức Hoàng: Để phát triển chuỗi giá trị nông sản Việt, doanh nghiệp cần là đầu tàu dẫn dắt

Chia sẻ với Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập, TS. Chử Đức Hoàng - Chánh Văn phòng, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF), Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, để phát triển chuỗi giá trị nông sản Việt, doanh nghiệp cần là đầu tàu dẫn dắt.
TS. Lê Anh Tuấn: Bán ròng và tỷ giá khiến thị trường bị đánh giá thấp

TS. Lê Anh Tuấn: Bán ròng và tỷ giá khiến thị trường bị đánh giá thấp

Khối ngoại bán ròng kỷ lục, ảnh hưởng dự trữ ngoại hối. TS. Lê Anh Tuấn cho rằng, tỷ giá cao khiến chính sách tiền tệ khó nới lỏng, thị trường đang bị đánh giá thấp.
GS. Hà Tôn Vinh: Nhiều rào cản khiến doanh nghiệp Việt khó niêm yết tại Mỹ và bài học rút ra từ Vinfast

GS. Hà Tôn Vinh: Nhiều rào cản khiến doanh nghiệp Việt khó niêm yết tại Mỹ và bài học rút ra từ Vinfast

Trong khi hàng trăm doanh nghiệp châu Á từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore cho đến Ấn Độ – đã chinh phục thành công thị trường vốn quốc tế, Việt Nam đến nay vẫn chỉ có một doanh nghiệp duy nhất niêm yết tại Mỹ: VinFast. Đó là bước tiến lịch sử, nhưng cũng là tấm gương phản chiếu cho thấy khoảng cách lớn giữa khát vọng toàn cầu và năng lực của doanh nghiệp Việt.
GS. TS Hoàng Xuân Cơ: Cơ chế khiến doanh nghiệp không thể biến rác thành vàng

GS. TS Hoàng Xuân Cơ: Cơ chế khiến doanh nghiệp không thể biến rác thành vàng

Doanh nghiệp xử lý rác thải gặp khó vì chính sách phân bổ vốn và ưu đãi thiếu hợp lý. GS. TS Hoàng Xuân Cơ cho rằng: "Rác là tài nguyên quý giá" nhưng bị vứt bỏ do lỗ hổng chính sách.
TS. Nguyễn Văn Nghị: AI là động lực chuyển đổi giáo dục nghề nghiệp

TS. Nguyễn Văn Nghị: AI là động lực chuyển đổi giáo dục nghề nghiệp

Theo TS. Nguyễn Văn Nghị, AI mang đến cơ hội vàng cho giáo dục nghề nghiệp, nhưng đang vấp phải ba khoảng trống lớn về hạ tầng, dữ liệu và năng lực giáo viên cần giải quyết để vươn mình.
PGS. TS Phạm Quang Thao: AI là công cụ giải pháp cấp thiết cho nguồn nhân lực

PGS. TS Phạm Quang Thao: AI là công cụ giải pháp cấp thiết cho nguồn nhân lực

Theo PGS. TS Phạm Quang Thao, AI là công cụ quan trọng trong quản lý nhân viên và đội ngũ giảng viên, giúp tự động hóa quy trình, cải thiện hiệu quả làm việc trong bối cảnh hiện nay.
Chuyên gia Nguyễn Thành Hưng: AI là chìa khóa nâng tầm giáo dục nghề nghiệp

Chuyên gia Nguyễn Thành Hưng: AI là chìa khóa nâng tầm giáo dục nghề nghiệp

Tại Hội thảo “Ứng dụng công cụ AI trong phát triển giáo dục nghề nghiệp” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu Giáo dục Nghề nghiệp tổ chức sáng 6/11, ông Nguyễn Thành Hưng cho rằng, AI là công cụ tất yếu để cá nhân hóa và mô phỏng thực hành, nhưng giáo dục nghề nghiệp cần vượt qua thách thức hạ tầng và tư duy truyền thống.
Khát vốn giữa thời hội nhập: Quỹ Phát triển DNNVV có giải được bài toán cho doanh nghiệp?

Khát vốn giữa thời hội nhập: Quỹ Phát triển DNNVV có giải được bài toán cho doanh nghiệp?

Hàng trăm nghìn doanh nghiệp nhỏ và vừa trên cả nước đang khát vốn khi bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đúng thời điểm này, Dự thảo Nghị định mới về Quỹ Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) được kỳ vọng sẽ tháo nút thắt vốn cho khu vực kinh tế tư nhân. Nhưng giữa chính sách và thực tế vẫn còn một khoảng cách dài.