Thứ sáu 14/11/2025 14:06
Hotline: 024.355.63.010
Góc nhìn Chuyên gia

Chuyên gia Đỗ Giang: Thách thức và giải pháp định giá đất ở Việt Nam

Theo bà Đỗ Giang, Giám đốc Bộ phận Tư vấn & Định giá Savills Việt Nam, hiện những vấn đề tồn tại trong công tác định giá đất và các giải pháp cần thiết để cải thiện tính minh bạch và chính xác.
LTS: Trong bối cảnh thị trường bất động sản Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức, công tác định giá đất trở thành một trong những vấn đề quan trọng cần được giải quyết. Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập đã có bài phỏng vấn với chuyên gia Đỗ Giang, Giám đốc Bộ phận Tư vấn & Định giá Savills Việt Nam nhằm giúp độc giả hiểu rõ hơn về nguyên nhân của các vấn đề hiện tại, mà còn mở ra hướng đi cho việc cải cách và hoàn thiện công tác định giá đất, góp phần tạo dựng môi trường đầu tư bền vững và minh bạch.

PV: Theo bà tại sao hiện có 4 phương pháp định giá đất mà đến khi triển khai vẫn không xác định được giá đất khiến nhiều dự án bị đình trệ?

Bà Đỗ Giang: Thực tế, bốn phương pháp định giá đất hiện hành, bao gồm phương pháp so sánh, phương pháp thặng dư, phương pháp thu thập và phương pháp chiết trừ không phải khái niệm mới mà đã được áp dụng từ lâu trong lĩnh vực thẩm định giá. Việc nhiều dự án bị đình trệ do chưa xác định được giá đất không xuất phát từ sự thiếu hụt phương pháp định giá, mà có thể do một số nguyên do khác như sau:

Trước hết, theo quy định tại Điều 257 Luật Đất đai 2024, tại một số địa phương bảng giá đất của UBND ban hành theo Luật Đất Đai 2013 vẫn tiếp tục được áp dụng đến ngày 31/12/2025. Tuy nhiên, do bảng giá đất này không còn phản ánh chính xác giá trị thị trường, nên nhiều địa phương hiện trong trạng thái chờ đợi để áp dụng bảng giá đất mới theo quy định Luật Đất đai 2024 - vốn được kỳ vọng sẽ điều chỉnh để tiệm cận hơn với giá thị trường, phục vụ cho việc xem xét và phê duyệt dự án.

Chuyên gia Đỗ Giang: Thách thức và giải pháp định giá đất ở Việt Nam
Bà Đỗ Giang, Giám đốc Bộ phận Tư vấn & Định giá Savills Việt Nam (Ảnh: Savills)

Bên cạnh đó, các phương pháp định giá cũng gặp nhiều trở ngại khi áp dụng. Cả bốn phương pháp hiện hành đều gặp khó do hạn chế về dữ liệu giao dịch. Thị trường bất động sản cho đến nay vẫn thiếu minh bạch, đặc biệt là trong việc công khai thông tin giao dịch, dẫn đến khó khăn trong việc thu thập dữ liệu. Điều này ảnh hưởng đến khả năng tìm kiếm tài sản so sánh phù hợp trong phương pháp so sánh, cũng như tính chính xác của dữ liệu đầu vào đối với phương pháp thặng dư, phương pháp thu nhập hay phương pháp chiết trừ.

Ngoài ra, trong thời gian gần đây, nhiều cuộc đấu giá đất công khai đã ghi nhận hiện tượng đẩy giá lên cao, gây biến động thị trường. Điều này càng làm cho việc thu thập thông tin định giá trở nên phức tạp.

PV: Thưa bà, nguyên tắc xác định giá đất theo giá thị trường cần được hiểu và áp dụng như thế nào?

Bà Đỗ Giang: Nguyên tắc xác định giá đất theo thị trường là một yêu cầu quan trọng để đảm bảo phản ánh giá đất đúng giá trị thực. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là "thị trường" được hiểu như thế nào. Theo Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về cơ sở giá trị (ban hành kèm theo Thông tư số 30/2024/TT-BTC của Bộ Tài chính), giá trị thị trường được định nghĩa tại khoản 1 Điều 5 như sau: “Giá trị thị trường là khoản tiền ước tính để tài sản có thể được giao dịch tại thời điểm thẩm định giá giữa người sẵn sàng mua và người sẵn sàng bán trong một giao dịch khách quan, độc lập, sau khi được tiếp thị đầy đủ và các bên tham gia hành động có hiểu biết, thận trọng và không bị ép buộc”.

Từ định nghĩa này, có thể thấy nguyên tắc thị trường nhấn mạnh tính khách quan, độc lập và minh bạch của thông tin. Khi áp dụng vào định giá đất, yếu tố cốt lõi chính là dữ liệu phải đầy đủ, chính xác và công khai.

Dữ liệu này bao gồm thông tin về giao dịch bất động sản, quy hoạch và diễn biến thị trường. Sự minh bạch và toàn diện của dữ liệu không chỉ giúp hạn chế tình trạng thao túng, méo mó thị trường mà còn ngăn chặn sự chi phối từ bất kỳ nhóm lợi ích nào, qua đó đảm bảo thị trường vận hành theo đúng quy luật cung - cầu và cạnh tranh lành mạnh.

Chuyên gia Đỗ Giang: Thách thức và giải pháp định giá đất ở Việt Nam
Nguyên tắc xác định giá đất theo thị trường là một yêu cầu quan trọng để đảm bảo phản ánh giá đất đúng giá trị thực

Ngoài ra, dữ liệu minh bạch cũng cho phép việc xác định giá đất phản ánh đầy đủ các yếu tố tác động như quy hoạch, hạ tầng, pháp lý và chính sách. Giá đất không thể chỉ dựa vào dữ liệu quá khứ mà cần tính đến xu hướng trong tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong các phương pháp định giá dựa trên thu nhập, như phương pháp thu nhập hoặc phương pháp thặng dư.

PV: Quan điểm của bà thế nào trước câu chuyện hiện nay có nhiều ý kiến tại các địa phương cho rằng nên định ra một giá đất chung đối với các dự án và các địa phương phát triển kinh tế xã hội tương tự nhau?

Bà Đỗ Giang: Cá nhân tôi cho rằng không thể áp dụng một mức giá chung cho tất cả các loại hình sử dụng đất, bao gồm đất ở, đất thương mại, dịch vụ, hay giữa các địa phương có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau. Cách tiếp cận này không chỉ đi ngược lại nguyên tắc thị trường mà còn không phản ánh đúng thực tiễn định giá đất.

Cần hiểu giá trị đất chịu tác động trực tiếp từ loại đất, mục đích sử dụng và thời hạn sử dụng - những yếu tố này quyết định quyền và nghĩa vụ cụ thể của người sử dụng đất. Chẳng hạn, đất ở thường có thời hạn sử dụng lâu dài, trong khi đất thương mại, dịch vụ thường chỉ có thời hạn từ 50 - 70 năm. Chỉ riêng yếu tố thời hạn đã khiến giá trị đất ở, trong cùng một vị trí và điều kiện tương đồng, cao hơn đất thương mại, dịch vụ. Khoảng cách này càng gia tăng khi xét đến sự khác biệt về điều kiện phát triển kinh tế - xã hội giữa các địa phương.

Do đó, việc áp đặt một mức giá đất đồng nhất là đi ngược lại nguyên tắc thị trường, vốn yêu cầu giá đất phải phản ánh chính xác quan hệ cung – cầu và tiềm năng sinh lợi của từng khu đất. Nếu áp dụng một mức giá chung, sẽ không có sự phân biệt giữa các vị trí đắc địa và những khu vực kém thuận lợi, làm suy giảm tính cạnh tranh và dẫn đến méo mó thị trường.

PV: Thưa bà, việc giá bất động sản ở một số địa phương thời gian qua tăng nóng đã ảnh hưởng tới công tác định giá đất ra sao và để có thể giải quyết các vướng mắc này cần có phương án thế nào?

Bà Đỗ Giang: Sự gia tăng đột biến của giá bất động sản tại một địa phương có thể tác động mạnh đến việc định giá đất ở các dự án lân cận theo nhiều cách. Trước tiên, kỳ vọng của nhà đầu tư cho rằng giá đất tại các khu vực lân cận sẽ tăng theo có thể tạo áp lực lên quá trình thẩm định giá. Bên cạnh đó, các giao dịch trong giai đoạn "sốt đất" thường không phản ánh giá trị thực, mà bị chi phối bởi yếu tố đầu cơ hoặc tâm lý thị trường. Nếu lấy những giao dịch này làm cơ sở định giá, nguy cơ định giá sai lệch là rất cao. Hơn nữa, khi giá đất bị đẩy lên

quá mức, chi phí giải phóng mặt bằng sẽ gia tăng đáng kể, khiến chi phí phát triển dự án gia tăng, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư và thậm chí làm giảm tính khả thi của dự án.

Để khắc phục tình trạng này, thị trường cần tập trung vào việc hoàn thiện dữ liệu và nâng cao tính minh bạch của thông tin bất động sản.

Trước hết, việc xây dựng hệ thống dữ liệu giá đất và giao dịch bất động sản đồng bộ, minh bạch và chính xác là cần thiết. Giao dịch bất động sản cần được cập nhật thường xuyên và công khai, tạo nguồn thông tin đáng tin cậy cho nhà đầu tư và đơn vị thẩm định. Cơ quan quản lý có thể thu thập dữ liệu từ nhiều nguồn như hợp đồng công chứng, kê khai thuế, giao dịch thực tế nhằm đảm bảo giá trị đất được phản ánh đúng. Dữ liệu này sau đó phải được “làm sạch” thông qua cơ chế kiểm soát giao dịch bất thường, loại bỏ các giao dịch có giá trị tăng đột biến, mang yếu tố đầu cơ hoặc giữa các bên liên quan.

Bên cạnh đó, việc minh bạch hóa thông tin quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất cũng rất quan trọng. Khi thông tin được công khai rõ ràng, thị trường sẽ tránh được những cơn "sốt đất" do tin đồn hoặc tình trạng trục lợi từ những nhóm có lợi thế thông tin trước khi quy hoạch chính thức được công bố.

Nếu được triển khai đồng bộ, các giải pháp này có thể phản ánh đúng giá trị thức của giá đất, hạn chế tác động tiêu cực từ tâm lý thị trường, đồng thời tạo nền tảng phát triển bền vững cho thị trường bất động sản.

Xin cảm ơn bà!

Tin bài khác
PGS.TS. Ngô Thị Phương Thảo: Điều tiết thị trường bất động sản cần tìm "ngưỡng" an toàn vĩ mô

PGS.TS. Ngô Thị Phương Thảo: Điều tiết thị trường bất động sản cần tìm "ngưỡng" an toàn vĩ mô

Theo PGS. TS Ngô Thị Phương Thảo, thị trường bất động sản đang chuyển từ "tiền tệ hóa" sang "tài chính hóa" với tính chu kỳ rõ rệt, đặt ra thách thức lớn về an toàn hệ thống tài chính và khả năng tiếp cận nhà ở.
Hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới: Chủ động, chọn lọc và bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia

Hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới: Chủ động, chọn lọc và bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia

Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới được đánh giá là kim chỉ nam chiến lược, thể hiện tầm nhìn dài hạn của Việt Nam trong tiến trình hội nhập sâu rộng. Theo TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Vietnam, đây không chỉ là sự nối dài của đường lối mở cửa suốt ba thập niên qua, mà còn là bước chuyển mang tính bản lề: từ hội nhập để thích nghi sang hội nhập để định hình cuộc chơi.
TS. Cấn Văn Lực: 10.000 tỷ – tấm vé vào cuộc chơi tài sản số

TS. Cấn Văn Lực: 10.000 tỷ – tấm vé vào cuộc chơi tài sản số

TS. Cấn Văn Lực cho biết, Việt Nam có 21 triệu nhà đầu tư tài sản mã hóa với doanh số 200 tỷ USD, cần cơ chế vốn 10.000 tỷ và ủy thác đầu tư để giữ dòng vốn ở lại.
GS.TS Hoàng Văn Cường: Phát triển kinh tế tuần hoàn, bản thân các doanh nghiệp phải liên kết

GS.TS Hoàng Văn Cường: Phát triển kinh tế tuần hoàn, bản thân các doanh nghiệp phải liên kết

Chia sẻ với Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập, GS.TS Hoàng Văn Cường - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, muốn phát triển kinh tế tuần hoàn, bản thân các doanh nghiệp phải liên kết với nhau, phải tạo ra sự kết nối.
Cần kiến tạo thị trường tín chỉ carbon, bảo lãnh tín dụng xanh cho doanh nghiệp SME

Cần kiến tạo thị trường tín chỉ carbon, bảo lãnh tín dụng xanh cho doanh nghiệp SME

Để chuyển đổi xanh trở thành động lực cạnh tranh, Nhà nước cần phát triển thị trường tín chỉ carbon, trái phiếu xanh, đồng thời xây dựng cơ chế bảo lãnh tín dụng giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn xanh - theo ông Đậu Anh Tuấn – Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
Chuyên gia Tô Trần Hòa: Việt Nam sẵn sàng thể chế hóa để bứt phá thị trường tài sản mã hóa

Chuyên gia Tô Trần Hòa: Việt Nam sẵn sàng thể chế hóa để bứt phá thị trường tài sản mã hóa

Việt Nam đang gấp rút hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho tài sản mã hóa theo Nghị quyết 05. Đây là cơ hội lớn để thu hút nguồn lực công nghệ và vốn ngoại, khẳng định vị thế khu vực.
TS. Nguyễn Minh Cường: Cần tự do hóa tài chính để huy động vốn hiệu quả

TS. Nguyễn Minh Cường: Cần tự do hóa tài chính để huy động vốn hiệu quả

Theo TS. Nguyễn Minh Cường, Việt Nam không thiếu vốn, nhưng chưa phân bổ và huy động hiệu quả. Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) phải là bước thí điểm cho chiến lược tự do hóa tài chính sâu rộng.
TS. Đinh Thế Hiển: Siêu lợi nhuận bất động sản đã kết thúc, thị trường xoay trục về nhu cầu thực

TS. Đinh Thế Hiển: Siêu lợi nhuận bất động sản đã kết thúc, thị trường xoay trục về nhu cầu thực

TS. Đinh Thế Hiển nhận định, thời kỳ siêu lợi nhuận bất động sản đã khép lại, thị trường đang chuyển hướng sang nhu cầu thực, buộc nhà đầu tư thay đổi tư duy.
TS. Phan Đức Hiếu: Việt Nam cần thể chế đột phá để IFC cạnh tranh toàn cầu

TS. Phan Đức Hiếu: Việt Nam cần thể chế đột phá để IFC cạnh tranh toàn cầu

Theo TS. Phan Đức Hiếu, Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) là bước đột phá thể chế để thu hút dòng vốn toàn cầu, hình thành môi trường kinh doanh cạnh tranh khu vực.
TS. Chử Đức Hoàng: Để phát triển chuỗi giá trị nông sản Việt, doanh nghiệp cần là đầu tàu dẫn dắt

TS. Chử Đức Hoàng: Để phát triển chuỗi giá trị nông sản Việt, doanh nghiệp cần là đầu tàu dẫn dắt

Chia sẻ với Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập, TS. Chử Đức Hoàng - Chánh Văn phòng, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF), Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, để phát triển chuỗi giá trị nông sản Việt, doanh nghiệp cần là đầu tàu dẫn dắt.
TS. Lê Anh Tuấn: Bán ròng và tỷ giá khiến thị trường bị đánh giá thấp

TS. Lê Anh Tuấn: Bán ròng và tỷ giá khiến thị trường bị đánh giá thấp

Khối ngoại bán ròng kỷ lục, ảnh hưởng dự trữ ngoại hối. TS. Lê Anh Tuấn cho rằng, tỷ giá cao khiến chính sách tiền tệ khó nới lỏng, thị trường đang bị đánh giá thấp.
GS. Hà Tôn Vinh: Nhiều rào cản khiến doanh nghiệp Việt khó niêm yết tại Mỹ và bài học rút ra từ Vinfast

GS. Hà Tôn Vinh: Nhiều rào cản khiến doanh nghiệp Việt khó niêm yết tại Mỹ và bài học rút ra từ Vinfast

Trong khi hàng trăm doanh nghiệp châu Á từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore cho đến Ấn Độ – đã chinh phục thành công thị trường vốn quốc tế, Việt Nam đến nay vẫn chỉ có một doanh nghiệp duy nhất niêm yết tại Mỹ: VinFast. Đó là bước tiến lịch sử, nhưng cũng là tấm gương phản chiếu cho thấy khoảng cách lớn giữa khát vọng toàn cầu và năng lực của doanh nghiệp Việt.
GS. TS Hoàng Xuân Cơ: Cơ chế khiến doanh nghiệp không thể biến rác thành vàng

GS. TS Hoàng Xuân Cơ: Cơ chế khiến doanh nghiệp không thể biến rác thành vàng

Doanh nghiệp xử lý rác thải gặp khó vì chính sách phân bổ vốn và ưu đãi thiếu hợp lý. GS. TS Hoàng Xuân Cơ cho rằng: "Rác là tài nguyên quý giá" nhưng bị vứt bỏ do lỗ hổng chính sách.
TS. Nguyễn Văn Nghị: AI là động lực chuyển đổi giáo dục nghề nghiệp

TS. Nguyễn Văn Nghị: AI là động lực chuyển đổi giáo dục nghề nghiệp

Theo TS. Nguyễn Văn Nghị, AI mang đến cơ hội vàng cho giáo dục nghề nghiệp, nhưng đang vấp phải ba khoảng trống lớn về hạ tầng, dữ liệu và năng lực giáo viên cần giải quyết để vươn mình.
PGS. TS Phạm Quang Thao: AI là công cụ giải pháp cấp thiết cho nguồn nhân lực

PGS. TS Phạm Quang Thao: AI là công cụ giải pháp cấp thiết cho nguồn nhân lực

Theo PGS. TS Phạm Quang Thao, AI là công cụ quan trọng trong quản lý nhân viên và đội ngũ giảng viên, giúp tự động hóa quy trình, cải thiện hiệu quả làm việc trong bối cảnh hiện nay.