Thứ năm 23/10/2025 12:44
Hotline: 024.355.63.010
Góc nhìn Chuyên gia

Chuyên gia Đỗ Giang: Thách thức và giải pháp định giá đất ở Việt Nam

Theo bà Đỗ Giang, Giám đốc Bộ phận Tư vấn & Định giá Savills Việt Nam, hiện những vấn đề tồn tại trong công tác định giá đất và các giải pháp cần thiết để cải thiện tính minh bạch và chính xác.
LTS: Trong bối cảnh thị trường bất động sản Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức, công tác định giá đất trở thành một trong những vấn đề quan trọng cần được giải quyết. Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập đã có bài phỏng vấn với chuyên gia Đỗ Giang, Giám đốc Bộ phận Tư vấn & Định giá Savills Việt Nam nhằm giúp độc giả hiểu rõ hơn về nguyên nhân của các vấn đề hiện tại, mà còn mở ra hướng đi cho việc cải cách và hoàn thiện công tác định giá đất, góp phần tạo dựng môi trường đầu tư bền vững và minh bạch.

PV: Theo bà tại sao hiện có 4 phương pháp định giá đất mà đến khi triển khai vẫn không xác định được giá đất khiến nhiều dự án bị đình trệ?

Bà Đỗ Giang: Thực tế, bốn phương pháp định giá đất hiện hành, bao gồm phương pháp so sánh, phương pháp thặng dư, phương pháp thu thập và phương pháp chiết trừ không phải khái niệm mới mà đã được áp dụng từ lâu trong lĩnh vực thẩm định giá. Việc nhiều dự án bị đình trệ do chưa xác định được giá đất không xuất phát từ sự thiếu hụt phương pháp định giá, mà có thể do một số nguyên do khác như sau:

Trước hết, theo quy định tại Điều 257 Luật Đất đai 2024, tại một số địa phương bảng giá đất của UBND ban hành theo Luật Đất Đai 2013 vẫn tiếp tục được áp dụng đến ngày 31/12/2025. Tuy nhiên, do bảng giá đất này không còn phản ánh chính xác giá trị thị trường, nên nhiều địa phương hiện trong trạng thái chờ đợi để áp dụng bảng giá đất mới theo quy định Luật Đất đai 2024 - vốn được kỳ vọng sẽ điều chỉnh để tiệm cận hơn với giá thị trường, phục vụ cho việc xem xét và phê duyệt dự án.

Chuyên gia Đỗ Giang: Thách thức và giải pháp định giá đất ở Việt Nam
Bà Đỗ Giang, Giám đốc Bộ phận Tư vấn & Định giá Savills Việt Nam (Ảnh: Savills)

Bên cạnh đó, các phương pháp định giá cũng gặp nhiều trở ngại khi áp dụng. Cả bốn phương pháp hiện hành đều gặp khó do hạn chế về dữ liệu giao dịch. Thị trường bất động sản cho đến nay vẫn thiếu minh bạch, đặc biệt là trong việc công khai thông tin giao dịch, dẫn đến khó khăn trong việc thu thập dữ liệu. Điều này ảnh hưởng đến khả năng tìm kiếm tài sản so sánh phù hợp trong phương pháp so sánh, cũng như tính chính xác của dữ liệu đầu vào đối với phương pháp thặng dư, phương pháp thu nhập hay phương pháp chiết trừ.

Ngoài ra, trong thời gian gần đây, nhiều cuộc đấu giá đất công khai đã ghi nhận hiện tượng đẩy giá lên cao, gây biến động thị trường. Điều này càng làm cho việc thu thập thông tin định giá trở nên phức tạp.

PV: Thưa bà, nguyên tắc xác định giá đất theo giá thị trường cần được hiểu và áp dụng như thế nào?

Bà Đỗ Giang: Nguyên tắc xác định giá đất theo thị trường là một yêu cầu quan trọng để đảm bảo phản ánh giá đất đúng giá trị thực. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là "thị trường" được hiểu như thế nào. Theo Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về cơ sở giá trị (ban hành kèm theo Thông tư số 30/2024/TT-BTC của Bộ Tài chính), giá trị thị trường được định nghĩa tại khoản 1 Điều 5 như sau: “Giá trị thị trường là khoản tiền ước tính để tài sản có thể được giao dịch tại thời điểm thẩm định giá giữa người sẵn sàng mua và người sẵn sàng bán trong một giao dịch khách quan, độc lập, sau khi được tiếp thị đầy đủ và các bên tham gia hành động có hiểu biết, thận trọng và không bị ép buộc”.

Từ định nghĩa này, có thể thấy nguyên tắc thị trường nhấn mạnh tính khách quan, độc lập và minh bạch của thông tin. Khi áp dụng vào định giá đất, yếu tố cốt lõi chính là dữ liệu phải đầy đủ, chính xác và công khai.

Dữ liệu này bao gồm thông tin về giao dịch bất động sản, quy hoạch và diễn biến thị trường. Sự minh bạch và toàn diện của dữ liệu không chỉ giúp hạn chế tình trạng thao túng, méo mó thị trường mà còn ngăn chặn sự chi phối từ bất kỳ nhóm lợi ích nào, qua đó đảm bảo thị trường vận hành theo đúng quy luật cung - cầu và cạnh tranh lành mạnh.

Chuyên gia Đỗ Giang: Thách thức và giải pháp định giá đất ở Việt Nam
Nguyên tắc xác định giá đất theo thị trường là một yêu cầu quan trọng để đảm bảo phản ánh giá đất đúng giá trị thực

Ngoài ra, dữ liệu minh bạch cũng cho phép việc xác định giá đất phản ánh đầy đủ các yếu tố tác động như quy hoạch, hạ tầng, pháp lý và chính sách. Giá đất không thể chỉ dựa vào dữ liệu quá khứ mà cần tính đến xu hướng trong tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong các phương pháp định giá dựa trên thu nhập, như phương pháp thu nhập hoặc phương pháp thặng dư.

PV: Quan điểm của bà thế nào trước câu chuyện hiện nay có nhiều ý kiến tại các địa phương cho rằng nên định ra một giá đất chung đối với các dự án và các địa phương phát triển kinh tế xã hội tương tự nhau?

Bà Đỗ Giang: Cá nhân tôi cho rằng không thể áp dụng một mức giá chung cho tất cả các loại hình sử dụng đất, bao gồm đất ở, đất thương mại, dịch vụ, hay giữa các địa phương có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau. Cách tiếp cận này không chỉ đi ngược lại nguyên tắc thị trường mà còn không phản ánh đúng thực tiễn định giá đất.

Cần hiểu giá trị đất chịu tác động trực tiếp từ loại đất, mục đích sử dụng và thời hạn sử dụng - những yếu tố này quyết định quyền và nghĩa vụ cụ thể của người sử dụng đất. Chẳng hạn, đất ở thường có thời hạn sử dụng lâu dài, trong khi đất thương mại, dịch vụ thường chỉ có thời hạn từ 50 - 70 năm. Chỉ riêng yếu tố thời hạn đã khiến giá trị đất ở, trong cùng một vị trí và điều kiện tương đồng, cao hơn đất thương mại, dịch vụ. Khoảng cách này càng gia tăng khi xét đến sự khác biệt về điều kiện phát triển kinh tế - xã hội giữa các địa phương.

Do đó, việc áp đặt một mức giá đất đồng nhất là đi ngược lại nguyên tắc thị trường, vốn yêu cầu giá đất phải phản ánh chính xác quan hệ cung – cầu và tiềm năng sinh lợi của từng khu đất. Nếu áp dụng một mức giá chung, sẽ không có sự phân biệt giữa các vị trí đắc địa và những khu vực kém thuận lợi, làm suy giảm tính cạnh tranh và dẫn đến méo mó thị trường.

PV: Thưa bà, việc giá bất động sản ở một số địa phương thời gian qua tăng nóng đã ảnh hưởng tới công tác định giá đất ra sao và để có thể giải quyết các vướng mắc này cần có phương án thế nào?

Bà Đỗ Giang: Sự gia tăng đột biến của giá bất động sản tại một địa phương có thể tác động mạnh đến việc định giá đất ở các dự án lân cận theo nhiều cách. Trước tiên, kỳ vọng của nhà đầu tư cho rằng giá đất tại các khu vực lân cận sẽ tăng theo có thể tạo áp lực lên quá trình thẩm định giá. Bên cạnh đó, các giao dịch trong giai đoạn "sốt đất" thường không phản ánh giá trị thực, mà bị chi phối bởi yếu tố đầu cơ hoặc tâm lý thị trường. Nếu lấy những giao dịch này làm cơ sở định giá, nguy cơ định giá sai lệch là rất cao. Hơn nữa, khi giá đất bị đẩy lên

quá mức, chi phí giải phóng mặt bằng sẽ gia tăng đáng kể, khiến chi phí phát triển dự án gia tăng, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư và thậm chí làm giảm tính khả thi của dự án.

Để khắc phục tình trạng này, thị trường cần tập trung vào việc hoàn thiện dữ liệu và nâng cao tính minh bạch của thông tin bất động sản.

Trước hết, việc xây dựng hệ thống dữ liệu giá đất và giao dịch bất động sản đồng bộ, minh bạch và chính xác là cần thiết. Giao dịch bất động sản cần được cập nhật thường xuyên và công khai, tạo nguồn thông tin đáng tin cậy cho nhà đầu tư và đơn vị thẩm định. Cơ quan quản lý có thể thu thập dữ liệu từ nhiều nguồn như hợp đồng công chứng, kê khai thuế, giao dịch thực tế nhằm đảm bảo giá trị đất được phản ánh đúng. Dữ liệu này sau đó phải được “làm sạch” thông qua cơ chế kiểm soát giao dịch bất thường, loại bỏ các giao dịch có giá trị tăng đột biến, mang yếu tố đầu cơ hoặc giữa các bên liên quan.

Bên cạnh đó, việc minh bạch hóa thông tin quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất cũng rất quan trọng. Khi thông tin được công khai rõ ràng, thị trường sẽ tránh được những cơn "sốt đất" do tin đồn hoặc tình trạng trục lợi từ những nhóm có lợi thế thông tin trước khi quy hoạch chính thức được công bố.

Nếu được triển khai đồng bộ, các giải pháp này có thể phản ánh đúng giá trị thức của giá đất, hạn chế tác động tiêu cực từ tâm lý thị trường, đồng thời tạo nền tảng phát triển bền vững cho thị trường bất động sản.

Xin cảm ơn bà!

Tin bài khác
Còn khó khăn khi thực hiện ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp khởi nghiệp

Còn khó khăn khi thực hiện ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp khởi nghiệp

Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Chử Đức Hoàng – Chủ tịch Viện Chiến lược Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (STI); Chánh Văn phòng Quỹ Đổi mới Công nghệ Quốc gia (NATIF) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, làm rõ những vướng mắc đang được bàn thảo tại Dự thảo Nghị định hướng dẫn Nghị quyết 198/2025/QH15 trong thực tế và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, đưa chính sách ưu đãi thuế thực sự trở thành động lực thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo.
Nghị quyết 05/2025/NQ-CP có đủ sức hút 21 triệu tài khoản Binance về "sân nhà"?

Nghị quyết 05/2025/NQ-CP có đủ sức hút 21 triệu tài khoản Binance về "sân nhà"?

Nghị quyết 05/2025/NQ-CP mở đường thí điểm thị trường tài sản mã hóa 5 năm. Dù Việt Nam được ví là "mỏ vàng" 200 tỷ USD giao dịch, cơ hội này chỉ dành cho doanh nghiệp có vốn 10.000 tỷ đồng, công nghệ và quản trị vượt trội.
Luật Thương mại điện tử sẽ tái định hình trật tự của “sân chơi số”

Luật Thương mại điện tử sẽ tái định hình trật tự của “sân chơi số”

Dự thảo Luật Thương mại điện tử (TMĐT) được xem là một bước ngoặt thể chế quan trọng không chỉ để quản lý, mà để tái định hình trật tự của không gian kinh doanh số. Một khung pháp lý đủ linh hoạt, đủ mạnh và đủ công bằng sẽ quyết định liệu Việt Nam có thể xây dựng một thị trường TMĐT minh bạch, hàng thật, giá trị thật, hay tiếp tục phụ thuộc vào nền tảng ngoại chi phối.
PGS.TS Nguyễn Trọng Điều: Viên chức nên được tham gia làm giám đốc doanh nghiệp

PGS.TS Nguyễn Trọng Điều: Viên chức nên được tham gia làm giám đốc doanh nghiệp

PGS.TS Nguyễn Trọng Điều cho rằng, đội ngủ viên chức nên được quyền tham gia làm giám đốc, quản lý các doanh nghiệp có liên quan đến chuyên ngành của họ.
PGS. TS Triệu Văn Cường: Nên để viên chức được tham gia quản lý doanh nghiệp

PGS. TS Triệu Văn Cường: Nên để viên chức được tham gia quản lý doanh nghiệp

PGS. TS Triệu Văn Cường cho rằng Luật Công chức, nên cho phép viên chức làm khoa học được tham gia quản lý doanh nghiệp để tăng tính ứng dụng thực tiễn.
TS. Nguyễn Văn Thuận: Tự chủ đơn vị sự nghiệp đang "mắc kẹt" vì phân loại

TS. Nguyễn Văn Thuận: Tự chủ đơn vị sự nghiệp đang "mắc kẹt" vì phân loại

TS. Nguyễn Văn Thuận, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội, cảnh báo cơ chế tự chủ đơn vị sự nghiệp công đang lúng túng, đòi hỏi phải xác định rõ ràng chức năng hoạt động để tránh lẫn lộn quản lý và tài chính.
Khi luật chưa theo kịp thực tiễn kinh tế trong khu vực sự nghiệp công

Khi luật chưa theo kịp thực tiễn kinh tế trong khu vực sự nghiệp công

Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội Nguyễn Văn Phúc phân tích sự thiếu vắng Luật Đơn vị Sự nghiệp đã khiến các tổ chức cung cấp dịch vụ công vận hành mập mờ giữa cơ chế công chức và doanh nghiệp, kìm hãm tự chủ.
TS. Lê Xuân Nghĩa: Cơ chế "đột biến giá" từ chính quyền và chi phí ẩn

TS. Lê Xuân Nghĩa: Cơ chế "đột biến giá" từ chính quyền và chi phí ẩn

TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, đà tăng giá bất động sản 12% theo thu nhập là ổn định, nhưng cảnh báo nguy cơ đột biến do thủ tục hành chính địa phương và hiện tượng "gom đất để đẩy giá".
GS. TS Phan Trung Lý: Tự chủ thực chất cần "đoạn quyền lực" tránh hỗn loạn thể chế

GS. TS Phan Trung Lý: Tự chủ thực chất cần "đoạn quyền lực" tránh hỗn loạn thể chế

Theo GS. TS Phan Trung Lý, nguyên Chủ nhiệm ủy ban Pháp luật Quốc hội tình trạng "lệch quyền lực" và ba trụ cột kiểm soát phải song hành để hệ thống vận hành hiệu quả.
TS. Võ Trí Thành: 3 lĩnh vực cuộc sống đang bị quy luật "giá tăng" đè nặng

TS. Võ Trí Thành: 3 lĩnh vực cuộc sống đang bị quy luật "giá tăng" đè nặng

TS. Võ Trí Thành phân tích sâu sắc về quy luật "giá chỉ có tăng", nhấn mạnh bất động sản và lạm phát là hai vấn đề lớn, gây ra "căn bệnh Hà Lan" và làm méo mó các quyết định đầu tư.
Đầu tư cho con người – điểm nhấn linh hoạt trong Dự thảo Luật Đầu tư, Kinh doanh

Đầu tư cho con người – điểm nhấn linh hoạt trong Dự thảo Luật Đầu tư, Kinh doanh

Dự thảo Luật Đầu tư Kinh doanh 2025, do Bộ Tài chính chủ trì xây dựng, được xem là bước ngoặt trong cải cách thể chế, khi chuyển từ “quản lý cấp phép” sang “quản lý rủi ro và hậu kiểm”, hướng tới môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch và linh hoạt trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt. Bên cạnh những điều chỉnh lớn về thủ tục, danh mục ngành nghề và cơ chế ưu đãi, khía cạnh “nhân lực trong đầu tư”, yếu tố quyết định hiệu quả dòng vốn và năng suất quốc gia, vẫn là khoảng trống cần được hoàn thiện.
Dự thảo Luật Đầu tư kinh doanh: Bước ngoặt trong tư duy quản lý nhưng thiếu khung pháp lý cho gọi vốn cộng đồng

Dự thảo Luật Đầu tư kinh doanh: Bước ngoặt trong tư duy quản lý nhưng thiếu khung pháp lý cho gọi vốn cộng đồng

Hiện tại, Dự thảo Luật Đầu tư kinh doanh chưa có quy định riêng cho hình thức huy động vốn cộng đồng, đặc biệt là các mô hình đầu tư tài sản số hoặc token hóa, theo Luật sư Hà Linh (Đoàn Luật sư TP Hà Nội).
Chuyên gia Lê Phương Anh: Doanh nghiệp tỏa sáng nhờ lắng nghe nhân viên và chuyển đổi văn hóa số toàn diện

Chuyên gia Lê Phương Anh: Doanh nghiệp tỏa sáng nhờ lắng nghe nhân viên và chuyển đổi văn hóa số toàn diện

Chuyên gia Lê Phương Anh (MCG) cho rằng, phát triển bền vững nằm ở sự đồng hành của lãnh đạo, chuyển hóa năng lực con người và kiến tạo văn hóa số từ bên trong.
Chuyên gia Phan Đức Trung trình bày hạ tầng Blockchain Việt Nam tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ

Chuyên gia Phan Đức Trung trình bày hạ tầng Blockchain Việt Nam tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ

Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025–2030, Tổng Bí thư Tô Lâm đã đến thăm khu trưng bày Mạng Dịch vụ Đa chuỗi Blockchain Việt Nam (VBSN).
Luật sư Ngọc Anh: Huy động vốn cộng đồng - Nhà đầu tư có thể mất trắng vào những dự án triệu đô

Luật sư Ngọc Anh: Huy động vốn cộng đồng - Nhà đầu tư có thể mất trắng vào những dự án triệu đô

Thời gian gần đây, dư luận liên tục chấn động bởi những vụ việc thao túng cộng đồng trong các gói “đầu tư làm giàu”, nơi nhiều cá nhân và tổ chức huy động được hàng trăm, thậm chí hàng nghìn tỷ đồng từ người dân thông qua hình thức được quảng bá là “gọi vốn cộng đồng” hoặc “đầu tư tài chính”, với số vốn khổng lồ chờ ngày nào đó được niêm yết trên sàn chứng khoán quốc tế - vốn hóa tỷ đô.