Trợ cấp chưa đủ sống – nỗi lo hiện hữu
![]() |
Ba tháng mất việc, anh Nguyễn Việt Văn – ngành nghề xây dựng từng làm việc tại Công ty Cổ phần Xây dựng Hoàng Quân (quận Thanh Xuân, Hà Nội) – vẫn chưa tìm được công việc mới. Với 12 năm 3 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp theo mức lương 8 triệu đồng/tháng, anh nhận được trợ cấp 4,8 triệu đồng mỗi tháng trong vòng tối đa 12 tháng.
“Tôi không tiêu xài hoang phí, nhưng từng ấy tiền chỉ đủ trả tiền nhà và chi tiêu cá nhân tối giản. Với mức sống ở Hà Nội, khoản hỗ trợ này chỉ như ‘giọt nước nhỏ giữa sa mạc’”, anh Văn thở dài.
![]() |
Câu chuyện của chị Hoàng Thị Tuyết – một công nhân từng làm việc tại Mai Đình (Sóc Sơn, Hà Nội) – cũng không sáng sủa hơn. Sau khi nghỉ việc, chị được hưởng BHTN hơn 3 triệu đồng mỗi tháng do doanh nghiệp chỉ đóng bảo hiểm theo mức lương tối thiểu vùng. “Mỗi tháng nhận được vài triệu, trong khi tiền ăn, tiền học cho con, chi phí sinh hoạt không ngừng tăng. Chưa hết tháng đã hết tiền”, chị nói.
![]() |
Trường hợp của chị Lê Mỹ Linh – công nhân may tại khu công nghiệp Hoài Đức (Hà Nội). Dù công ty có đóng bảo hiểm thất nghiệp nhưng đến lúc chị nghỉ việc, doanh nghiệp vẫn nợ đọng bảo hiểm nên chị không thể chốt sổ và không được hưởng bất kỳ khoản trợ cấp nào.
Những câu chuyện thực tế cho thấy, trợ cấp thất nghiệp hiện nay đang “lệch pha” với nhu cầu sống tối thiểu của người lao động sau khi mất việc.
Chính sách đã lỗi thời – Cần sửa để sống cùng người lao động
Theo quy định, người lao động được hưởng 60% bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trong 6 tháng gần nhất, nhưng không quá 5 lần mức lương cơ sở hoặc lương tối thiểu vùng. Điều này dẫn đến một nghịch lý phổ biến: mức hưởng không phản ánh đúng thu nhập thực tế.
Ông Trần Tuấn Tú – Trưởng phòng Bảo hiểm thất nghiệp (Cục Việc làm, Bộ Nội vụ) – cho biết: “Nhiều doanh nghiệp chỉ khai lương đóng BHTN ở mức thấp để giảm chi phí. Một công nhân có thể thu nhập 10 triệu đồng nhưng doanh nghiệp chỉ đóng theo mức 6 triệu, khiến người lao động chỉ nhận được khoảng 3,6 triệu đồng/tháng khi thất nghiệp. Đây là thiệt thòi lớn”.
Không ít người lao động dù đã đóng bảo hiểm hàng chục năm vẫn lâm vào cảnh chật vật, buộc phải đi vay mượn, làm thêm tạm bợ hoặc sa vào nợ nần.
Được triển khai từ năm 2009, sau hơn 16 năm vận hành, chính sách BHTN đang bộc lộ nhiều bất cập. Theo bà Hồ Thị Kim Ngân – Phó Trưởng ban Quan hệ lao động (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam): “Trợ cấp thất nghiệp không chỉ để tồn tại, mà cần đủ để người lao động sống trong thời gian tìm việc mới hoặc học nghề chuyển đổi”.
Đồng quan điểm, bà Nguyễn Thị Thanh Liễu – Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm (Hà Nội) – khẳng định: “Chính sách BHTN cần chuyển hướng từ hỗ trợ thụ động sang hỗ trợ chủ động, tạo điều kiện để người lao động nhanh chóng quay trở lại thị trường lao động”.
Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, nhiều đại biểu đã lên tiếng yêu cầu sửa đổi Luật Việc làm nhằm nâng cao hiệu quả của bảo hiểm thất nghiệp. Một trong những đề xuất đáng chú ý là tăng mức hưởng trợ cấp lên 65%, và trong trường hợp đặc biệt như dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế, có thể tăng đến 75% để đảm bảo mức sống tối thiểu.
Không để ai bị bỏ lại phía sau
Một điểm hạn chế khác là chính sách hiện nay chưa bao phủ người lao động phi chính thức, chiếm tỷ lệ lớn trong nền kinh tế. Theo đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị), chính sách BHTN cần mở rộng tới cả cán bộ, công chức, viên chức – những người cũng có nguy cơ mất việc do tinh giản biên chế.
![]() |
Đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) |
Việc mở rộng đối tượng tham gia và ứng dụng công nghệ trong giải quyết hồ sơ BHTN cũng là nội dung quan trọng đang được đưa vào Dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi). Mục tiêu là đảm bảo mọi người lao động – bất kể làm việc trong khu vực chính thức hay phi chính thức – đều được tiếp cận chính sách an sinh phù hợp.
Ngày 11/6 tới đây, Quốc hội dự kiến thông qua Dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi). Đây là thời điểm then chốt để cải cách chính sách BHTN theo hướng toàn diện, hiệu quả và công bằng hơn.
Không chỉ là khoản hỗ trợ ngắn hạn, BHTN cần trở thành đòn bẩy phục hồi dài hạn, giúp người lao động tái hòa nhập thị trường một cách chủ động. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp trong thế kỷ 21 phải vượt qua vai trò “trợ cấp”, để trở thành “bệ phóng” cho sự ổn định, phát triển và bảo vệ nhân phẩm của người lao động.