![]() |
Không chỉ là một tranh chấp cá nhân, vụ việc này mở ra góc nhìn về tình trạng “né tránh” nghĩa vụ bảo hiểm trong thực tế, cũng như những lỗ hổng trong việc giám sát và thực thi pháp luật lao động hiện hành.
Khi doanh nghiệp không đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
Theo hồ sơ vụ án, ông Đặng Phước Thành ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn với Công ty TNHH X từ tháng 5/2021 với mức lương 20 triệu đồng/tháng. Tuy nhiên, từ tháng 7/2023 đến khi nghỉ việc vào tháng 3/2024, ông bị công ty nợ lương nhiều tháng và đặc biệt, không được tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp theo đúng quy định.
Căn cứ theo Điều 186 Bộ luật Lao động 2019, người sử dụng lao động có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động. Đồng thời, theo Khoản 1, Điều 12 Luật Việc làm 2013, tham gia bảo hiểm thất nghiệp là bắt buộc đối với người lao động có hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên.
Do không được công ty đóng bảo hiểm thất nghiệp, ông Thành không thể làm hồ sơ hưởng chế độ sau khi nghỉ việc – một quyền lợi được Nhà nước bảo đảm. Đây là hành vi vi phạm pháp luật, khiến người lao động rơi vào tình trạng khó khăn sau khi mất việc, trái với nguyên tắc “bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động” được quy định trong Điều 10 Bộ luật Lao động.
Với chứng cứ là quyết định giải quyết khiếu nại số 1053 của Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội TP.HCM, Tòa án xác định công ty còn nợ tiền bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp của ông Thành với tổng số tiền là 33.273.147 đồng, và buộc công ty phải truy đóng toàn bộ số tiền này.
![]() |
Ảnh minh họa |
Hành vi chậm đóng, không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp không chỉ bị xử phạt hành chính (theo Nghị định 12/2022/NĐ-CP), mà còn có thể bị khởi tố hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng (theo Điều 216 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi).
Một điểm đáng chú ý khác là suốt quá trình tố tụng, phía công ty TNHH X – bị đơn – liên tục vắng mặt dù đã được tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần. Việc không có mặt, không cung cấp ý kiến phản biện không làm thay đổi bản chất vụ việc, nhưng cho thấy sự thiếu tôn trọng quy trình pháp lý cũng như coi thường nghĩa vụ đối với người lao động.
Theo quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án có thể tiến hành xét xử vắng mặt nếu đương sự được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do chính đáng. Trong vụ án này, Tòa án quận Tân Bình đã thực hiện đúng trình tự và tuyên buộc công ty phải trả lương còn nợ cho ông Thành là 30.265.231 đồng.
Mặc dù bản án tuyên rõ công ty phải thanh toán một lần toàn bộ tiền lương và truy đóng bảo hiểm ngay sau khi án có hiệu lực, nhưng trên thực tế, việc thi hành án còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có năng lực tài chính và thiện chí hợp tác của doanh nghiệp.
Với số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam chiếm đến hơn 90%, không ít doanh nghiệp thiếu khả năng hoặc cố tình “lờ đi” nghĩa vụ sau bản án. Điều này khiến người lao động, dù đã thắng kiện, vẫn có nguy cơ không thể tiếp cận quyền lợi của mình.
Lỗ hổng giám sát và bài học cho người lao động
![]() |
Qua vụ án này, có thể rút ra hai bài học pháp lý quan trọng:
Thứ nhất, người lao động cần chủ động theo dõi việc đóng bảo hiểm của doanh nghiệp bằng cách tra cứu thông tin bảo hiểm định kỳ qua hệ thống BHXH Việt Nam (ứng dụng VssID, website của cơ quan BHXH).
Thứ hai, cơ quan chức năng cần tăng cường thanh tra, xử phạt doanh nghiệp vi phạm, đặc biệt trong các trường hợp cố tình lách luật, né tránh đóng bảo hiểm. Các chế tài hiện tại tuy đã có, nhưng tính răn đe chưa cao, nhất là khi việc xử lý hình sự vẫn còn hiếm.
Ngoài ra, Nhà nước có thể nghiên cứu các giải pháp mạnh mẽ hơn như: Ràng buộc điều kiện tiếp cận tín dụng, đấu thầu công, ưu đãi thuế với các doanh nghiệp có tình trạng bảo hiểm minh bạch. Công khai danh sách doanh nghiệp nợ BHXH để người lao động có thông tin lựa chọn nơi làm việc uy tín.
![]() |
Người lao động cần chủ động theo dõi việc đóng bảo hiểm của doanh nghiệp bằng cách tra cứu thông tin bảo hiểm định kỳ qua hệ thống BHXH Việt Nam là ứng dụng VssID |
Vụ việc ông Đặng Phước Thành không chỉ đơn thuần là một tranh chấp lao động, mà là hồi chuông cảnh tỉnh về trách nhiệm pháp lý và đạo đức của doanh nghiệp đối với người lao động. Trong một xã hội đang hướng tới công bằng và bền vững, việc đảm bảo bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động không thể là lựa chọn – đó là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc.