Áp lực lạm phát rõ hơn và tiếp tục kéo dài trong những tháng cuối năm

20:15 16/09/2022

Dự báo lạm phát cuối năm 2022, nhóm nghiên cứu VEPR cho rằng, mặc dù hiện tại lạm phát vẫn chưa phải là vấn đề quá lớn, nhưng áp lực lạm phát đã được cảm nhận rõ hơn và tiếp tục kéo dài trong những tháng cuối năm.

Phát biểu tại Đối thoại chính sách “Áp lực lạm phát năm 2022 và các đề xuất chính sách” do Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tổ chức ngày 16/9, TS Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thuộc trường Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định: Giai đoạn 2022-2023, triển vọng kinh tế toàn cầu xấu đi, tăng trưởng GDP thực tế toàn cầu dự kiến sẽ giảm xuống từ 1,7%-3,7% vào năm 2022 và 1,8-4,0% vào năm 2023.

Ảnh minh họa
Đối thoại chính sách “Áp lực lạm phát năm 2022 và các đề xuất chính sách”. 

Lạm phát ở các quốc gia phát triển đang đạt đến mức chưa từng thấy từ những năm 1980. Lạm phát toàn cầu dự kiến tăng từ 7,2-9,4% vào năm 2022, trước khi giảm xuống 4,0-6,5% vào năm 2023.

Áp lực lạm phát từ phía cầu đã thúc đẩy các ngân hàng trung ương các nước triển khai các chính sách tiền tệ thắt chặt và chạy đua lãi suất, tuy nhiên điều này đồng nghĩa với việc nguy cơ suy thoái nền kinh tế toàn cầu đang gia tăng.

Động thái này sẽ tạo hiệu ứng phụ, tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu, “bóp nghẹt" sản xuất lẫn tiêu dùng dẫn đến suy thoái kinh tế, người lao động mất việc làm ảnh hưởng đến ổn định và an ninh. Trong trường hợp vòng xoáy đình đốn sản xuất, thiếu hụt nguồn cung khiến lạm phát không giảm đi trong bối cảnh đình trệ sản xuất, kinh doanh.

“Các chính sách hỗ trợ, kích thích kinh tế giảm tác dụng so với dự kiến ban đầu. Tăng trưởng giảm, đình trệ sản xuất kéo dài làm nản lòng các nhà đầu tư khiến họ rút khỏi thị trường. Nợ xấu tăng khiến rủi ro hệ thống tài chính, ngân hàng tăng cao, kéo theo rủi ro nợ công”, ông Việt cho biết. 

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa. 

Tương quan với bối cảnh kinh tế thế giới, nhóm nghiên cứu của VEPR cho rằng, tăng trưởng kinh tế Việt Nam 8 tháng đầu năm phục hồi mạnh mẽ, các chỉ số kinh tế vĩ mô tích cực, xuất khẩu tăng trưởng khá cao dù các nền kinh tế đối tác gặp khó khăn.

Áp lực lạm phát trong nước hiện hữu trong bối cảnh tăng giá xăng dầu và nguyên, nhiên vật liệu đầu vào. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang kiểm soát tốt tình hình lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 8 tháng tăng 2,58% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 1,67% của bình quân 8 tháng năm 2021, nhưng thấp hơn mức bình quân 8 tháng của các năm 2018-2020.

“Mặc dù hiện tại lạm phát vẫn chưa phải là vấn đề quá lớn, nhưng áp lực lạm phát đã được cảm nhận rõ hơn và sẽ tiếp tục kéo dài trong những tháng cuối năm. Căng thẳng chính trị tại Ukraine vẫn là nguy cơ lớn nhất đối với lạm phát và giá cả hàng hóa của Việt Nam”, ông Việt nhận định.

Đồng tình với đánh giá này, TS Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV nhấn mạnh từ nay đến cuối năm, lạm phát từng tháng sẽ tăng lên.

“Dự báo năm 2023, áp lực lạm phát sẽ còn lớn hơn, khó khăn hơn, điều này sẽ tạo áp lực cho tăng trưởng kinh tế. Theo đó, năm 2022, tăng trưởng GDP dự báo khoảng 7-7,5%, nhưng năm sau sẽ là 6,5-7%”, ông Lực dự báo.

Để kiểm soát lạm phát những tháng cuối năm, nhóm nghiên cứu của VEPR khuyến nghị cần kiên trì thực hiện các biện pháp ổn đinh kinh tế vĩ mô, ổn định giá cả, kìm chế lạm phát như chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.

Cân nhắc có chọn lọc các biện pháp chính sách nhằm hỗ trợ các nhóm sản xuất hoặc người lao động gặp khó khăn do giá cả nguyên liệu đầu vào tăng cao. Trong đó, đặc biệt chú trọng rà soát và thực hiện kịp thời các chính sách hỗ trợ cho các nhóm sản xuất và dịch vụ có tính đặc thù cao phụ thuộc vào giá nguyên phụ liệu đầu vào hoặc chi phí logistics tăng cao.

Chính phủ cần tiếp tục linh hoạt và kiên trì các chính sách vừa hỗ trợ kiểm soát lạm phát vừa thúc đẩy tăng trưởng một cách bền vững như các nghị quyết của Quốc hội đã đặt ra.

Với tình hình kiểm soát đã rất khả quan như 8 tháng vừa qua, Chính phủ nên dần dần từng bước triển khai các nhóm giải pháp về chính sách (bao gồm cả chính sách về tài khoá và tiền tệ mà đã có thể bị trì hoãn, do dự) để tiếp tục hỗ trợ trong phục hồi kinh tế và phục hồi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Nếu dự báo cuối năm tình hình lạm phát có thể được kìm chế tốt thì nên cân nhắc một số động thái nới lỏng hỗ trợ tăng trưởng như nới room tín dụng và đặc biệt triển khai gói hỗ trợ 2% lãi suất theo đúng Nghị quyết của Chính phủ.

Ngoài ra, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân về vốn và tiếp cận thị trường (cả cung và cầu) cũng như tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng.

Hà Anh