Xuất khẩu chuối, giấc mơ tỷ USD đang dần hiện hữu |
Xuất khẩu tăng nhưng phụ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu
Phát biểu tại “Diễn đàn kinh doanh 2025: Giải pháp đột phá hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới”, diễn ra mới đây, TS. Lê Duy Bình đánh giá: Nhiều năm qua, hoạt động ngoại thương nói chung và xuất khẩu nói riêng có đóng góp lớn cho nền kinh tế.
![]() |
TS. Lê Duy Bình – Giám đốc Economica Việt Nam |
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2024 ước đạt trên 786,1 tỷ USD, góp phần tăng thu ngoại tệ, hỗ trợ tích cực cho cán cân thanh toán, giúp nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế. Số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2024 là 88,7 nghìn doanh nghiệp, góp phần tạo ra hàng triệu việc làm, sinh kế cho người lao động.
Đáng chú ý, thông qua hoạt động xuất nhập khẩu và tham gia tích cực vào 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã gia tăng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Theo xếp hạng Top 100 thương hiệu quốc gia giá trị nhất thế giới của BrandFinance, giá trị thương hiệu của Việt Nam năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32 trong số 193 quốc gia được đánh giá, tăng một bậc về thứ hạng và tăng 2% về giá trị so năm 2023.
Mặc dù xuất nhập khẩu đóng góp ngày càng rõ nét vào GDP Việt Nam, từ 14% năm 2019 lên gần 20% năm 2024, song TS. Lê Duy Bình vẫn lưu ý, không thể chỉ dựa vào việc gia tăng kim ngạch để thúc đẩy GDP, doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh nội địa hóa.
Ông dẫn chứng, khu vực FDI đóng góp 100% giá trị xuất khẩu điện thoại và linh kiện nhưng lại nhập khẩu tới 89% giá trị linh kiện đầu vào. Hay dệt may - ngành xuất khẩu chủ lực nhưng theo Báo cáo của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), tỷ lệ nội địa hóa của ngành dệt may Việt Nam chỉ dao động quanh mức 45-50%. “Điều này đồng nghĩa với việc hơn một nửa nguyên phụ liệu, đặc biệt là vải và sợi, vẫn phải nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và các quốc gia khác”, ông Bình nhấn mạnh.
Chuyển từ “tăng lượng” sang “tăng chất”
Thực tế nền kinh tế toàn cầu đang biến động ngày càng phức tạp, thách thức trong hoạt động thương mại quốc tế thời gian qua liên tiếp gia tăng, nổi bật như các vụ kiện chống phá giá, rủi ro về thuế như thuế đối ứng…
Ở trong nước, yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế, mục tiêu tăng trưởng cao, bền vững và yêu cầu phải thay đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu, cách thức tiếp cận thị trường… đòi hỏi tư duy mới của cơ quan quản lý và vai trò tiên phong của doanh nghiệp.
Vì vậy, từ góc độ kinh tế học, TS. Lê Duy Bình đặt câu hỏi: Liệu có thể duy trì kim ngạch xuất khẩu cao như thời gian trước đây ở mức từ 10-15% để hỗ trợ tăng trưởng GDP từ 8% trở lên trong 1-2 thập kỷ tới hay không, nhất là khi lợi thế về lao động, chi phí thấp không còn phát huy?.
Trả lời luôn cho trăn trở này, ông Bình cho rằng, không thể khác, bối cảnh mới chúng ta cần thay đổi tư duy, không phải tăng về kim ngạch xuất khẩu mà chất lượng, giá trị gia tăng, tỷ lệ nội địa hóa của hàng xuất khẩu. Với tư duy này, thay vì đặt ra mục tiêu xuất khẩu gắn với những con số cụ thể phải căn cứ vào những tiêu chí khác như giá trị gia tăng, tỷ lệ nội địa hóa… sẽ mang ý nghĩa định hướng lớn hơn rất nhiều cho nền kinh tế, các cơ quan quản lý, cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Ông nhấn mạnh, cần đổi mới tư duy, chuyển từ tăng trưởng số lượng sang nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng, tỷ lệ nội địa hóa; giảm phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu; tăng đóng góp của công nghiệp nội địa trong chế biến chế tạo.
Quay trở lại câu chuyện thương hiệu, TS. Bình nhấn mạnh, thương hiệu doanh nghiệp Việt chính là “đại sứ” của nền kinh tế. Sản phẩm Việt hiện diện ở đâu thì không gian thị trường được mở rộng tới đó. Muốn xuất khẩu đóng góp bền vững cho GDP, doanh nghiệp cần chủ động nâng chất lượng, tăng nội địa hóa và mở rộng năng lực sản xuất trong nước, thay vì chỉ trông vào lợi thế tạm thời.
Số liệu thông kê cho thấy, doanh nghiệp FDI đóng góp lớn, riêng giai đoạn từ 2018 - 2024, xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp này luôn chiếm tới trên 70% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Song thực tế không chỉ doanh nghiệp trong nước mà doanh nghiệp FDI cũng phụ thuộc nhiều vào việc nhập khẩu nguyên vật liệu, các sản phẩm trung gian, máy móc thiết bị sản xuất. Bên cạnh hàng hóa, Việt Nam vẫn nhập siêu dịch vụ từ năm 2015, chủ yếu ở lĩnh vực logistics, bảo hiểm, y tế, giáo dục, du lịch và ngân hàng – những ngành hỗ trợ trực tiếp cho thương mại hàng hóa.
Do đó, doanh nghiệp trong nước cần tiên phong thay đổi, gia tăng đóng góp trực tiếp vào xuất khẩu; cần đổi mới tư duy, chuyển từ mục tiêu “tăng lượng” sang “tăng chất”, tức nâng cao giá trị gia tăng, tỷ lệ nội địa hóa của hàng xuất khẩu; đồng thời phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ và các ngành dịch vụ xuất khẩu. Thay vì đặt mục tiêu kim ngạch cụ thể, cần căn cứ vào các tiêu chí như tỷ lệ nội địa hóa, giá trị gia tăng để định hướng phát triển bền vững.