Bất cập trong quy định “đóng – hưởng”
Việc Quốc hội thông qua Luật Việc làm (sửa đổi) với những điểm mới như mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp và rút ngắn thời gian chờ là một tín hiệu tích cực, thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc nâng cao phúc lợi cho NLĐ. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất – mức trợ cấp – vẫn dậm chân tại chỗ: 60% mức lương bình quân đóng bảo hiểm thất nghiệp trong 6 tháng gần nhất.
Trong khi đó, mức đóng bảo hiểm thất nghiệp của đa số NLĐ hiện nay vẫn chỉ tính trên lương cơ bản, khiến số tiền thực nhận khi thất nghiệp thấp đến mức không đủ sống, chưa nói đến nuôi con, trả nợ hay chi phí y tế.
![]() |
Trường hợp của chị Đỗ Phạm Thùy Dương (TP.HCM) là minh chứng điển hình. Dù thu nhập thực tế của chị là 23 triệu đồng/tháng, nhưng do công ty chỉ khai đóng BHTN theo lương cơ bản, nên khi thất nghiệp, chị chỉ nhận 4,2 triệu đồng/tháng – con số không đủ để trả tiền thuê nhà.
“Tôi mất việc, trợ cấp chỉ đủ cầm cự trong vài tuần. Với mức sống ở thành phố, số tiền đó chẳng thấm vào đâu. Hệ thống bảo hiểm lẽ ra phải là điểm tựa, nhưng với NLĐ như tôi, nó quá mong manh”, chị Dương chia sẻ.
Tương tự, anh Lê Văn Hoàng (25 tuổi, Tây Ninh) sau khi thất nghiệp chỉ nhận trợ cấp 3,2 triệu đồng/tháng, buộc phải chạy xe công nghệ để xoay xở. Dù muốn đi làm lại, nhưng anh phân vân vì nếu có việc chính thức thì sẽ mất trợ cấp, trong khi công việc hiện tại tuy không ổn định nhưng vẫn "cầm cự được".
![]() |
Điều này phản ánh nghịch lý trong hệ thống hiện hành: đóng ít – hưởng ít là điều dễ hiểu, nhưng khi NLĐ bị buộc phải đóng trên mức thấp, họ gần như không có quyền lựa chọn, dẫn đến hệ quả là khi mất việc, chính trợ cấp không phát huy được vai trò cứu sinh như kỳ vọng.
Theo ông Trần Tuấn Tú, Trưởng Phòng BHTN – Cục Việc làm, mức TCTN hiện tại thường chỉ dao động 3 - 4 triệu đồng/tháng do phần lớn NLĐ đóng bảo hiểm ở mức thấp. Điều này khiến trợ cấp không đủ để bảo đảm cuộc sống tối thiểu – một yêu cầu cơ bản của mọi chính sách an sinh xã hội.
Các chuyên gia đồng tình rằng: TCTN không chỉ để “có” mà phải đủ để NLĐ ổn định tạm thời, tạo điều kiện học nghề, chuyển đổi việc làm hoặc tìm công việc phù hợp hơn. Khi mức hưởng quá thấp, NLĐ buộc phải nhận bất cứ việc gì có thu nhập, thậm chí công việc không phù hợp, gây ra sự thiếu bền vững trên thị trường lao động.
Hướng tiếp cận linh hoạt và nhân văn từ kinh nghiệm quốc tế
Nhìn ra thế giới, nhiều nước đã áp dụng mô hình linh hoạt hơn nhằm vừa bảo vệ NLĐ, vừa ngăn chặn tình trạng lợi dụng. Tại Malaysia, NLĐ thất nghiệp nhận 80% lương tháng đầu tiên, sau đó giảm dần xuống 60% rồi 30% ở các tháng tiếp theo. Những ai sớm quay lại làm việc còn được thưởng bằng 25% phần trợ cấp chưa nhận.
Ở Nhật Bản, người thu nhập thấp và bị mất việc do hoàn cảnh khách quan có thể nhận tới 80% thu nhập cũ trong 11 tháng. Ngược lại, người nghỉ việc chủ động chỉ nhận 50% trong 6 tháng. Hàn Quốc thậm chí còn quy định mức sàn TCTN không thấp hơn 80% mức lương tối thiểu.
Những chính sách này cho thấy xu hướng kết hợp giữa hai nguyên tắc: "đóng – hưởng" và "chia sẻ", tức người có việc làm đóng góp vào quỹ để hỗ trợ những NLĐ yếu thế khi họ rơi vào khủng hoảng tạm thời.
![]() |
Bà Nguyễn Thị Mai Thủy – đại diện ILO tại Việt Nam (bên phải) |
Theo bà Nguyễn Thị Mai Thủy – đại diện ILO tại Việt Nam, Việt Nam cần xây dựng chính sách TCTN linh hoạt, theo hướng cao hơn trong giai đoạn đầu, giảm dần về sau, nhằm khuyến khích NLĐ chủ động quay lại thị trường lao động. Đây cũng là cách để tránh tâm lý ỷ lại hoặc trì hoãn việc đi làm lại.
Luật sư Nguyễn Minh Tâm, Trưởng Văn phòng Luật sư Đắc Nhân Tâm, đề xuất: “Nên áp dụng mô hình tăng – giảm, tức 80% ở tháng đầu, sau đó giảm xuống. Cùng lúc, cần siết quy định về mức đóng bảo hiểm phải dựa trên thu nhập thực nhận, thay vì chỉ là mức lương ghi trong hợp đồng.”
Luật hiện hành cho phép DN và NLĐ “thỏa thuận” mức đóng, tạo ra lỗ hổng pháp lý, dẫn đến tình trạng phổ biến là “lương thực nhận cao, lương khai thấp”. Điều này khiến NLĐ thiệt đơn, thiệt kép khi gặp rủi ro mất việc.
Tuy nhiên, cũng cần có cơ chế giám sát nghiêm ngặt để tránh bị lợi dụng. Nhiều NLĐ tìm việc thời vụ để đủ điều kiện nhận trợ cấp, trong khi vẫn đi làm “chui” ở nơi khác – vừa vi phạm luật, vừa gây bất ổn thị trường lao động.
![]() |
Theo ThS. Nguyễn Minh Giang (Trường ĐH Văn Hiến), bảo hiểm thất nghiệp hiệu quả không chỉ là “chi đúng, chi đủ”, mà phải công bằng, linh hoạt và định hướng tái hòa nhập thị trường lao động. TCTN không nên chỉ là chiếc phao tạm bợ, mà phải là bệ đỡ để NLĐ tái lập cuộc sống và sự nghiệp một cách bền vững.
Để làm được điều đó, Việt Nam cần một cuộc cải cách sâu rộng về chính sách BHTN – từ mức đóng, cách tính trợ cấp đến cơ chế kiểm soát và hỗ trợ NLĐ quay lại thị trường. Chỉ khi TCTN đủ sống, đủ lực và đủ minh bạch, mới có thể tạo dựng được niềm tin và sự gắn kết của NLĐ với hệ thống bảo hiểm xã hội.