![]() |
| Vì sao 1,6 triệu thanh niên Việt Nam ngoài vùng học tập, đào tạo và việc làm? Ảnh minh họa |
Trong báo cáo tình hình lao động, việc làm quý 3 và 9 tháng đầu năm 2025 vừa được công bố, Tổng cục Thống kê cho biết có tới 1,6 triệu thanh niên trong độ tuổi từ 15 đến 24 không tham gia bất kỳ hoạt động nào liên quan đến học tập, đào tạo hay làm việc. So với quý 2, con số này tăng thêm 250.000 người - một mức tăng khiến nhiều người không khỏi lo ngại về khoảng trống ngày càng lớn trong nhóm dân số trẻ.
Ngày 3/11, bà Nguyễn Thị Thanh Mai – Quyền Trưởng ban Thống kê dân số và lao động trao đổi trên Tuổi Trẻ Online cho biết sự gia tăng này có yếu tố mang tính mùa vụ. Theo bà Mai, nhóm thanh niên này bao gồm cả những người đang tìm kiếm việc làm nhưng chưa có cơ hội, cũng như những người không có nhu cầu tham gia thị trường lao động hay hệ thống giáo dục, đào tạo.
Điểm đáng chú ý là trong khi nhóm thanh niên "không việc – không học – không đào tạo" lên tới 1,6 triệu người, thì tổng số người thất nghiệp trong cả nước quý 3 chỉ là 1 triệu người. Sự chênh lệch này xuất phát từ định nghĩa thống kê: người không có việc làm nhưng cũng không tìm việc sẽ không được tính vào lực lượng lao động - theo chuẩn quốc tế được Tổng cục Thống kê áp dụng.
Nhóm "không tham gia lực lượng lao động" có thể bao gồm nhiều đối tượng khác nhau như phụ nữ đang mang thai hoặc chăm con nhỏ, thanh thiếu niên sau tốt nghiệp THCS chưa tiếp tục học nghề hay học văn hóa, hoặc những người đơn giản là chưa sẵn sàng đi làm.
Trong khi đó, tổng lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước trong quý 3 năm nay đạt 53,3 triệu người. Số người có việc làm là 52,3 triệu, tăng hơn 261.000 người so với quý trước và gần 581.000 người so với cùng kỳ năm ngoái. Dù vậy, sự gia tăng này không hoàn toàn đồng đều. Lao động có việc làm ở khu vực thành thị tăng hơn 644.000 người, trong khi khu vực nông thôn lại giảm gần 93.000 người.
Tuy thị trường việc làm đang hồi phục, một thách thức lớn vẫn còn đó: tính bền vững chưa cao khi tỷ lệ lao động phi chính thức chiếm đến 63,4% tổng số lao động có việc làm. Mặc dù con số này có giảm nhẹ so với cùng kỳ năm trước, đây vẫn là biểu hiện cho thấy thị trường lao động Việt Nam vẫn đang phụ thuộc lớn vào khu vực thiếu ổn định và ít được thụ hưởng về chính sách xã hội của Nhà nước, ví dụ như bảo hiểm thất nghiệp, học nghề, giới thiệu việc làm,.....
Một chỉ báo đáng quan tâm khác là số lao động "không sử dụng hết tiềm năng" - tức những người muốn làm thêm nhưng không tìm được việc - đang ở mức khoảng 1,83 triệu người trong quý 3, chiếm 3,4% lực lượng lao động. Tỷ lệ này có xu hướng tăng nhanh từ năm 2020 đến nay, phần lớn do tác động kéo dài của đại dịch COVID-19 và quá trình phục hồi chưa đồng đều giữa các ngành, địa phương.
Về thu nhập, mức lương bình quân của người lao động trong quý 3 đạt khoảng 8,4 triệu đồng/tháng, nhỉnh hơn 124.000 đồng so với quý trước. Tuy có cải thiện, song mức tăng không quá nổi bật trong bối cảnh lạm phát và chi phí sinh hoạt vẫn đang đè nặng lên đời sống của nhiều hộ gia đình lao động.
Thực trạng thanh niên không có việc làm, không học tập hay đào tạo không chỉ là câu chuyện riêng của Việt Nam, mà là vấn đề toàn cầu.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), hiện có khoảng 262 triệu thanh niên trên thế giới rơi vào nhóm “3 không” – không việc làm, không học và không được đào tạo – chiếm tới 1/4 dân số trẻ, trong đó phụ nữ chiếm gần 2/3.
Tổng giám đốc ILO Gilbert F. Houngbo cảnh báo: “Không ai có thể nói về một tương lai ổn định khi hàng triệu thanh niên không có việc làm tử tế và cảm thấy bất an.”
Từ kinh nghiệm của nhiều quốc gia, ILO khuyến nghị áp dụng mô hình “Youth Guarantee” – một cơ chế đảm bảo rằng mỗi thanh niên đều có cơ hội tiếp cận việc làm, học nghề hoặc chương trình đào tạo trong vài tháng sau khi tốt nghiệp hoặc mất việc. Mô hình này đã được triển khai hiệu quả tại nhiều nước châu Âu, giúp giảm đáng kể tỷ lệ thanh niên thất nghiệp dài hạn.
Đối với Việt Nam, yêu cầu cấp thiết hiện nay là đầu tư mạnh mẽ hơn vào đào tạo kỹ năng số, mở rộng mạng lưới học nghề và hỗ trợ quá trình chuyển tiếp từ trường học đến việc làm. Dù tỷ lệ thất nghiệp chung đang được duy trì ở mức thấp, nhưng thực tế vẫn còn hơn 1,6 triệu thanh niên “đứng ngoài” thị trường lao động - điều này đặt ra thách thức lớn cho mục tiêu phát triển bền vững của nền kinh tế trong tương lai. Chính sách kết nối thị trường lao động, giáo dục nghề nghiệp và hỗ trợ nhóm dễ tổn thương cần được đặt ở trung tâm của các chiến lược phát triển nhân lực trong thời gian tới.
| Theo báo cáo mới nhất của Viện Khoa học tổ chức nhà nước và lao động (Bộ Nội vụ), lực lượng lao động Việt Nam trong quý 3-2025 đạt 53,3 triệu người, tăng hơn 583.000 người so với cùng kỳ năm 2024. Trong số này, 52,3 triệu người có việc làm, tập trung chủ yếu ở khu vực dịch vụ (chiếm gần 41%), tiếp đến là công nghiệp – xây dựng và nông, lâm, thủy sản. Tuy nhiên, bên cạnh tín hiệu tích cực về quy mô lực lượng lao động, tình trạng thất nghiệp vẫn là thách thức đáng chú ý. Cả nước hiện có hơn 1,06 triệu người không có việc làm; riêng khu vực thành thị ghi nhận tỷ lệ thất nghiệp khoảng 2,73%. Đặc biệt, nhóm thanh niên 15–24 tuổi tiếp tục là đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, với tỷ lệ thất nghiệp vượt 9%, tăng thêm khoảng 1,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Cùng với đó, hơn 696.000 lao động rơi vào tình trạng thiếu việc làm – chủ yếu là lao động giản đơn, làm việc thời vụ hoặc có thu nhập bấp bênh. Chất lượng nguồn nhân lực vẫn là vấn đề đáng quan ngại khi tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ chỉ đạt 29,5% tổng số, cho thấy thị trường đang thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực chất lượng cao. Về cơ cấu ngành nghề, quý 3 ghi nhận sự dịch chuyển đáng kể. Khu vực nông – lâm – thủy sản giảm gần 278.000 lao động; nhóm bán buôn, bán lẻ và sửa chữa phương tiện cũng giảm khoảng 79.000 người. Ngược lại, các ngành công nghiệp chế biến – chế tạo, vận tải – kho bãi và xây dựng có xu hướng tăng trưởng, lần lượt bổ sung khoảng 300.000, 282.000 và 174.000 việc làm mới. Trong khi đó, số người nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp đạt hơn 220.000 người, giảm 23.300 trường hợp so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý, hơn 60% trong số này là lao động không có bằng cấp, trong khi nhóm có trình độ đại học chỉ chiếm khoảng 19%. Các ngành có tỷ lệ người hưởng trợ cấp cao nhất gồm công nghiệp chế biến – chế tạo (35,2%), dịch vụ khác (30,5%) và lưu trú – ăn uống (10,2%). Phân tích sâu hơn cho thấy 5 nhóm nghề dễ bị tổn thương nhất trong giai đoạn này là thợ may – thêu, thợ lắp ráp, kế toán, nhân viên bán hàng và lái xe. Dự báo trong quý 4-2025, tổng số người có việc làm có thể tăng nhẹ lên 52,5 triệu người, nhờ sự phục hồi ở các lĩnh vực sản xuất trang phục, phương tiện vận tải, xử lý ô nhiễm và quản lý chất thải. Tuy vậy, một số ngành như khai thác quặng kim loại, sản xuất máy móc – thiết bị và dược phẩm vẫn đối mặt nguy cơ cắt giảm nhân sự do nhu cầu thị trường chưa ổn định. |