Mỗi năm, lượng kiều hối mà người lao động Việt Nam gửi về đạt khoảng 6,5 – 7 tỷ USD, góp phần bổ sung nguồn ngoại tệ quốc gia, tăng tích lũy và cải thiện đời sống của hàng trăm nghìn hộ gia đình trong nước.
Tại Hội nghị gặp gỡ, đối thoại với các doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, diễn ra ngày 30/10, quyền Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước Vũ Trường Giang cho biết, hàng triệu lao động Việt Nam đã và đang làm việc ở nước ngoài, mang lại lợi ích kinh tế đáng kể cho đất nước.
Thống kê cho thấy, trong 10 tháng năm 2025, cả nước đã đưa được hơn 120.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt 93,2% kế hoạch năm. Trong đó, Nhật Bản là thị trường tiếp nhận lớn nhất với hơn 55.000 lao động, tiếp theo là Đài Loan (Trung Quốc) hơn 47.000 người, và Hàn Quốc gần 10.000 người.
Ngoài ra, các thị trường tại châu Âu như Đức, Rumani, Hungary, Nga... vẫn duy trì ổn định. Dự kiến đến cuối năm 2025, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong giai đoạn 2021–2025 sẽ đạt khoảng 636.000 người, vượt 127% kế hoạch đề ra.
|  | 
| Lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về gần 7 tỷ USD mỗi năm | 
Hiện có khoảng 860.000 lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài, chủ yếu tại Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc và một số quốc gia châu Âu. Thu nhập của người lao động ở nước ngoài nhìn chung cao hơn đáng kể so với trong nước, giúp họ và gia đình có điều kiện ổn định, tích lũy, và cải thiện đời sống.
Theo Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng, hàng trăm nghìn lao động ra nước ngoài làm việc mỗi năm không chỉ giúp thay đổi đời sống vật chất, tinh thần của bản thân và gia đình, mà còn góp phần quan trọng vào chương trình xóa đói giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới. “Nguồn kiều hối 6 – 7 tỷ USD mỗi năm là con số rất lớn, tương đương giá trị xuất khẩu của nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn,” ông Thắng nhấn mạnh.
Bên cạnh kết quả tích cực, lĩnh vực đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài vẫn còn một số bất cập. Theo Thứ trưởng Vũ Chiến Thắng, vẫn có doanh nghiệp thu phí cao, không đúng quy định, gây bức xúc và thiệt thòi cho người lao động. Ở một số địa phương, công tác quản lý chưa chặt chẽ khiến người dân khó phân biệt hình thức xuất khẩu lao động hợp pháp và thương mại hóa.
“Việc thu phí cao đang đẩy những người yếu thế vào tình cảnh khó khăn hơn,” ông Thắng thẳng thắn nhìn nhận.
Ngoài ra, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng nghề của lao động Việt Nam vẫn còn hạn chế; thủ tục hành chính rườm rà, nhiều tầng nấc, khiến doanh nghiệp và người lao động mất nhiều thời gian, chi phí.
Ông Vũ Trường Giang cho biết, trong bối cảnh cạnh tranh lao động quốc tế ngày càng gay gắt, các nước như Philippines, Indonesia, Ấn Độ, Bangladesh... đều tăng cường chính sách đưa lao động ra nước ngoài, tạo sức ép lớn cho Việt Nam.
Để tháo gỡ khó khăn, Bộ Nội vụ đã ban hành nghị quyết chuyên đề về lĩnh vực này với 6 nhóm giải pháp trọng tâm, trong đó đáng chú ý là đơn giản hóa thủ tục hành chính, phân cấp cho địa phương và đẩy mạnh chuyển đổi số nhằm tạo thuận lợi tối đa cho người dân và doanh nghiệp.
 
                                                            
							 
                                                            
							 
                                                            
							 
                                                            
							 
                                                            
							 
                                                            
							 
                                                            
							 
                                                            
							 
                                                            
							 
                                                            
							 
                                                            
							 
                                                            
							 
                                                            
							 
                                                            
							