| Cải cách doanh nghiệp Nhà nước để khơi thông 4,3 triệu tỷ đồng tài sản TS. Lê Quang Thuận: Quản trị doanh nghiệp Nhà nước theo OECD để khơi thông 12 triệu tỷ vốn |
Tại Diễn đàn “Doanh nghiệp Nhà nước: Nâng cao năng lực cạnh tranh và vai trò dẫn dắt” diễn ra ngày 20/11/2025, ông Đặng Huy Đông, Nguyên Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chủ tịch Viện Quy hoạch & Phát triển, khẳng định doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) phải là đầu tàu dẫn dắt, là công cụ điều tiết, giải quyết những khuyết tật của kinh tế thị trường, đồng thời phải tiên phong trong đột phá công nghệ, đổi mới sáng tạo, đặc biệt là trong chuyển đổi kép (xanh và số).
Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử và lớn lao ấy, DNNN cần một sự thay đổi đột phá về môi trường và cơ chế quản lý. DNNN phải được hoạt động hoàn toàn theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, đi đôi với việc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Ông Đặng Huy Đông nhấn mạnh yêu cầu cần tách bạch rõ ràng nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh thông thường với nhiệm vụ cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích do Nhà nước kiểm soát giá để đánh giá hiệu quả một cách công bằng.
![]() |
| Ông Đặng Huy Đông, Nguyên Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chủ tịch Viện Quy hoạch & Phát triển |
Ông Nguyễn Huy Đông cho rằng, DNNN cần tập trung vào các lĩnh vực then chốt, thiết yếu, lĩnh vực đóng vai trò dẫn dắt và tạo động lực phát triển nhanh cho nền kinh tế, bao gồm ứng dụng công nghệ cao, các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quốc phòng, an ninh, và những lĩnh vực mà khu vực tư nhân không đầu tư hoặc không đủ nguồn lực để mở rộng sản xuất.
Theo ông Đông, việc sắp xếp, cơ cấu lại, đổi mới DNNN phải là một quá trình thường xuyên, liên tục theo cơ chế thị trường. Điều này bao gồm thoái vốn ở những ngành, lĩnh vực mà khu vực tư nhân đã đảm bảo cung cấp ổn định và cạnh tranh, trừ những ngành nghề trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân.
Một điểm nhấn quan trọng mà ông Đông đưa ra là việc áp dụng kinh nghiệm của Singapore trong lĩnh vực bất động sản nhà ở. Mô hình này cho thấy Nhà nước quản lý và trực tiếp tham gia quy hoạch, đầu tư xây dựng nhà ở cho người dân, không để khu vực tư nhân thao túng thị trường. Với lợi thế thể chế chính trị và đất đai công thổ thuộc sở hữu toàn dân, Việt Nam hoàn toàn có thể làm tốt hơn Singapore bằng cách giao nhiệm vụ cho DNNN đứng vai trò "cầm chịch", xây dựng các khu dân cư văn minh, hiện đại, đưa ra thị trường với mức giá phù hợp với khả năng chi trả của đại đa số người dân. Điều này không chỉ hiện thực hóa giấc mơ "An cư lạc nghiệp" mà còn củng cố sự ổn định chính trị - xã hội.
Bên cạnh đó, DNNN cũng cần định hướng đầu tư, mở rộng sang những ngành nghề, lĩnh vực mới mang tính dẫn dắt, cung cấp hàng hóa, dịch vụ thay thế hàng nhập khẩu, mở rộng xuất khẩu mà khu vực kinh tế tư nhân không đủ nguồn lực thực hiện.
Việc ban hành cơ chế mới về quản lý DNNN phải hướng tới hạn chế tối đa việc can thiệp hành chính trực tiếp vào hoạt động điều hành, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát, kiểm tra, đảm bảo bảo toàn và phát triển vốn. Ông Đông kêu gọi chấp nhận đầu tư mạo hiểm, thử nghiệm có kiểm soát (sandbox), chấp nhận rủi ro vì trong kinh doanh có thắng có thua.
Nguyên tắc quan trọng cần được thực hiện là chuyển mạnh từ quản lý theo quy trình thủ tục, tiền kiểm, sang quản lý theo kết quả đầu ra và hậu kiểm, nâng cao trách nhiệm giải trình. Việc đánh giá hiệu quả của lãnh đạo DNNN phải dựa trên kết quả tổng hòa giữa lỗ và lãi, tuyệt đối không lấy một dự án thua lỗ thất bại để đánh giá, và đặc biệt không hình sự hóa việc thua lỗ trong đầu tư kinh doanh, trừ trường hợp có bằng chứng về hành vi tham nhũng, trục lợi cá nhân.
Để hiện thực hóa những nguyên lý trên, ông Đông đề xuất một loạt các biện pháp đột phá: Thứ nhất, phải kịp thời đổi mới mạnh mẽ, đột phá về cơ chế, chính sách quản lý DNNN, tăng cường phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường trách nhiệm giải trình. Điều này đồng nghĩa với việc chuyển từ quản lý theo quy trình, thủ tục sang quản lý hiệu quả doanh nghiệp, xóa bỏ các cơ chế can thiệp hành chính.
Thứ hai, tập trung đầu tư vốn nhà nước vào các ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng, thiết yếu để dẫn dắt nền kinh tế; những ngành, lĩnh vực mới như công nghệ AI, lượng tử, công nghệ xanh, giảm phát thải khí nhà kính có khả năng tạo đột phá tăng trưởng. Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế đầu tư vốn vào các doanh nghiệp khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, start-up, kể cả doanh nghiệp nước ngoài có công nghệ tiên tiến, cần vốn mồi của Nhà nước để đạt lợi thế hiệu quả về quy mô mà tư nhân không dám đầu tư.
Thứ ba, cần củng cố, phát triển một số tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn, có năng lực công nghệ và đổi mới sáng tạo, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế. Đặc biệt, cần tập trung xử lý dứt điểm các tập đoàn, dự án thua lỗ kéo dài, với giải pháp cơ cấu lại hoặc chuyển nhượng dự án cho nhà đầu tư khác. Đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối, cần thực hiện linh hoạt các hình thức thoái vốn, giải thể, phá sản, thậm chí nghiên cứu thử nghiệm mô hình bán doanh nghiệp và thuê lại dịch vụ (sale and lease back) để tận dụng năng lực quản lý hiệu quả của khu vực tư nhân.
Cuối cùng, việc hoàn thiện cơ chế đấu thầu, mua sắm của DNNN theo hướng đơn giản hóa, chuẩn hóa thủ tục, áp dụng mua sắm tập trung là cực kỳ cần thiết để tiết kiệm thời gian, giảm thiểu rủi ro công vụ. Các tập đoàn lớn cũng cần sớm hình thành Trung tâm Nghiên cứu – Phát triển và Chuyển đổi kép phục vụ việc nâng cao năng lực khoa học – công nghệ và sức cạnh tranh bền vững của doanh nghiệp.