Thứ ba 18/11/2025 02:14
Hotline: 024.355.63.010
Góc nhìn Chuyên gia

"Liên kết đại học – doanh nghiệp là chìa khóa xây dựng ngành bán dẫn Việt Nam"

Đây cũng là đề xuất của GS.TS Trần Xuân Tú - Viện trưởng, Viện Công nghệ Thông tin, Đại học Quốc gia Hà Nội tại Tọa đàm khoa học “Chính sách đặc biệt để phát triển công nghệ chiến lược quốc gia” diễn ra sáng ngày 17/4.
GS.TS Trần Xuân Tú chia sẻ về nội lực phát triển ngành bán dẫn tại Tọa đàm Chính sách đặc biệt để phát triển công nghệ chiến lược quốc gia.

Tại Tọa đàm Chính sách đặc biệt để phát triển công nghệ chiến lược quốc gia diễn ra sáng ngày 17/4, GS.TS Trần Xuân Tú cho rằng, để phát triển lĩnh vực bán dẫn – một ngành công nghệ chiến lược – Việt Nam cần tập trung xây dựng nội lực vững chắc, cơ chế chia sẻ nguồn lực và đặc biệt là thiết lập mối liên kết thực chất giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với doanh nghiệp.

Trong bối cảnh thế giới bước vào cuộc cạnh tranh công nghệ cao ngày càng khốc liệt, Việt Nam đang đứng trước cơ hội – cũng là thách thức – khi xác định bán dẫn là một trong những công nghệ chiến lược quốc gia. Tuy nhiên, theo GS.TS Trần Xuân Tú, muốn phát triển ngành này một cách bài bản và bền vững, điều quan trọng đầu tiên là phải xây dựng được nội lực.

“Nội lực ở đây là năng lực cạnh tranh trong nghiên cứu và cả hạ tầng – cơ sở vật chất. Khi đã có nội lực, chúng ta mới đủ tự tin để triển khai các hoạt động hợp tác một cách hiệu quả,” ông khẳng định.

Trong bối cảnh ngân sách không thể đủ để mỗi đơn vị tự đầu tư toàn bộ hệ thống thiết bị công nghệ cao, GS.TS Trần Xuân Tú cho rằng cần có cơ chế chia sẻ nguồn lực, đặc biệt là thiết bị nghiên cứu – chế tạo.

Theo ông, trong lĩnh vực bán dẫn, việc đầu tư riêng lẻ cho mỗi đơn vị là điều không khả thi về mặt tài chính, bởi chi phí đầu tư các thiết bị công nghệ cao như máy quang khắc, hệ thống chế tạo chip là rất lớn. Do đó, mô hình dùng chung thiết bị giữa các trường đại học và viện nghiên cứu là xu thế tất yếu.

“Ví dụ trong lĩnh vực bán dẫn, nếu đơn vị nào cũng đầu tư máy quang khắc, đầu tư thiết bị chế tạo thì ngân sách không thể đủ. Ở Đài Loan (Trung Quốc) hay Mỹ, Pháp, đều có trung tâm liên kết giữa các trường đại học – viện nghiên cứu, chia nhau đầu tư thiết bị và dùng chung trong toàn khối nghiên cứu. Đây là một điều mà Việt Nam có thể học hỏi,” ông phân tích.

Doanh nghiệp cần trở thành trung tâm đặt hàng công nghệ

Một trong những thông điệp xuyên suốt của GS.TS Trần Xuân Tú là cần nhìn nhận doanh nghiệp như trung tâm của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, nhưng không theo cách tiếp cận tự do như môi trường đại học.

“Chúng ta xác định doanh nghiệp là trung tâm hoạt động khoa học công nghệ, nhưng đương nhiên không phải như các trường đại học. sinh viên là trung tâm, thích gì được nấy. thoải mái sáng tạo. Chúng ta cần xác định rõ, trong 5 năm tới, 10 năm tới, doanh nghiệp sẽ tập trung vào công nghệ nào, lĩnh vực nào. Từ đó, lấy đó làm ‘đầu bài’ để đặt hàng nghiên cứu", ông nói.

Theo ông, cần coi việc liên kết đại học – doanh nghiệp là chìa khóa xây dựng ngành bán dẫn Việt Nam. "Đầu tư cho các trường đại học – viện nghiên cứu cần gắn với định hướng doanh nghiệp, giúp hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo, tạo ra kết nối hai chiều giữa học thuật và sản xuất, từ đó sinh ra giá trị thực tiễn", GS.TS Trần Xuân Tú nhận định.

Một điểm đáng chú ý trong bài phát biểu của GS.TS. Trần Xuân Tú là đề xuất xây dựng ngân hàng IP (sở hữu trí tuệ) – nơi lưu trữ và phát triển các thiết kế chip của người Việt, giúp quá trình thương mại hóa trở nên khả thi hơn.

"Thực tế hiện nay, trong bán dẫn, giờ vẫn đang hô hào nhiều. Nhưng chúng ta cần hiểu rằng đây là công nghệ rất khó được thị trường chấp nhận nếu chưa được kiểm chứng. Các doanh nghiệp nước ngoài lớn không thể đặt niềm tin vào một nhà cung cấp mới. Vì vậy, chúng ta cần có ngân hàng IP để hỗ trợ các nhóm nghiên cứu hoàn thiện thiết kế và nhận được phản hồi từ thị trường,” ông lý giải.

Để vận hành ngân hàng này hiệu quả, ông cho rằng cần có một quỹ chuyên biệt hỗ trợ các nhóm nghiên cứu, startup hoạt động trong lĩnh vực công nghệ bán dẫn – điều mà nhiều quốc gia đã triển khai, như Trung Quốc với Quỹ Học viện Công nghệ Bắc Kinh.

Thiết kế là bước đi khả thi nhất

Cũng tại Tọa đàm Chính sách đặc biệt để phát triển công nghệ chiến lược quốc gia, GS.TS Trần Xuân Tú cho rằng, trong chuỗi giá trị bán dẫn, khâu thiết kế là điểm dễ tiếp cận nhất đối với Việt Nam hiện nay.

“Về thiết kế, đây là điều dễ làm nhất. Chúng ta cũng nên tập trung phát triển chip AI cho điện toán biên – đây là xu hướng tiềm năng, không cần hạ tầng quá phức tạp như chế tạo”, ông đề xuất.

Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng để khép kín chuỗi sản xuất bán dẫn, Việt Nam phải có một nhà máy đóng gói chip – bước đi mang tính chiến lược nhưng đòi hỏi đầu tư bài bản và hợp tác quốc tế sâu rộng.

Liên kết quốc tế cũng là một yếu tố được GS.TS Trần Xuân Tú nhấn mạnh. Ông cho rằng bên cạnh các hợp tác học thuật truyền thống, Việt Nam cần có cơ chế thông thoáng hơn để kết nối các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, cũng như phối hợp giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với các hiệp hội chuyên ngành.

Cuối cùng, để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam vững vàng hơn trong quá trình hợp tác quốc tế, GS.TS Trần Xuân Tú kiến nghị thành lập hội đồng hỗ trợ doanh nghiệp – với chức năng giúp doanh nghiệp tháo gỡ rào cản, tiếp cận nguồn lực, và mạnh dạn đầu tư vào các công nghệ mới.

Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác quốc tế không chỉ giữa giáo sư với giáo sư, mà còn là sự liên kết toàn diện giữa nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, thông qua các cơ chế thông thoáng hơn về quản lý, chia sẻ dữ liệu và phối hợp học thuật.

“Chúng ta không thể có đội ngũ chuyên gia hàng đầu chỉ sau một đêm. Cần sự kết hợp chặt chẽ giữa trường đại học và doanh nghiệp, giữa nghiên cứu và thị trường. Có như vậy, ngành bán dẫn Việt Nam mới có thể trụ vững và phát triển lâu dài”, GS.TS Trần Xuân Tú kết luận.

Tin bài khác
GS.TS Bùi Tiến Thành: Phát triển hạ tầng thông minh quyết định tương lai đô thị Việt Nam

GS.TS Bùi Tiến Thành: Phát triển hạ tầng thông minh quyết định tương lai đô thị Việt Nam

GS.TS Bùi Tiến Thành nhấn mạnh Việt Nam chỉ có thể tạo bứt phá đô thị nếu nắm bắt quy luật phát triển hạ tầng hiện đại, khai thác mô hình giao thông thông minh và mở rộng không gian theo cấu trúc vệ tinh hiệu quả.
ThS Nguyễn Anh Dương: Tăng trưởng bền vững tạo nền tảng ổn định cho thị trường bất động sản

ThS Nguyễn Anh Dương: Tăng trưởng bền vững tạo nền tảng ổn định cho thị trường bất động sản

ThS Nguyễn Anh Dương nhấn mạnh Việt Nam đang đối diện nhiều bài toán kép về tăng trưởng, ổn định vĩ mô và phát triển bền vững, đòi hỏi thị trường bất động sản phải thích ứng linh hoạt và cải cách mạnh mẽ hơn.
GS.TS Nguyễn Thành Hiếu: Bất động sản hậu COVID tạo sức ép lớn lên tăng trưởng

GS.TS Nguyễn Thành Hiếu: Bất động sản hậu COVID tạo sức ép lớn lên tăng trưởng

GS.TS Nguyễn Thành Hiếu nhận định thị trường bất động sản hậu COVID đang bộc lộ nhiều điểm nghẽn nghiêm trọng, buộc nền kinh tế đối diện thách thức lớn nếu không kịp thời tháo gỡ những rủi ro tích tụ suốt nhiều năm.
PGS.TS. Ngô Thị Phương Thảo: Điều tiết thị trường bất động sản cần tìm "ngưỡng" an toàn vĩ mô

PGS.TS. Ngô Thị Phương Thảo: Điều tiết thị trường bất động sản cần tìm "ngưỡng" an toàn vĩ mô

Theo PGS. TS Ngô Thị Phương Thảo, thị trường bất động sản đang chuyển từ "tiền tệ hóa" sang "tài chính hóa" với tính chu kỳ rõ rệt, đặt ra thách thức lớn về an toàn hệ thống tài chính và khả năng tiếp cận nhà ở.
Hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới: Chủ động, chọn lọc và bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia

Hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới: Chủ động, chọn lọc và bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia

Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới được đánh giá là kim chỉ nam chiến lược, thể hiện tầm nhìn dài hạn của Việt Nam trong tiến trình hội nhập sâu rộng. Theo TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Vietnam, đây không chỉ là sự nối dài của đường lối mở cửa suốt ba thập niên qua, mà còn là bước chuyển mang tính bản lề: từ hội nhập để thích nghi sang hội nhập để định hình cuộc chơi.
TS. Cấn Văn Lực: 10.000 tỷ – tấm vé vào cuộc chơi tài sản số

TS. Cấn Văn Lực: 10.000 tỷ – tấm vé vào cuộc chơi tài sản số

TS. Cấn Văn Lực cho biết, Việt Nam có 21 triệu nhà đầu tư tài sản mã hóa với doanh số 200 tỷ USD, cần cơ chế vốn 10.000 tỷ và ủy thác đầu tư để giữ dòng vốn ở lại.
GS.TS Hoàng Văn Cường: Phát triển kinh tế tuần hoàn, bản thân các doanh nghiệp phải liên kết

GS.TS Hoàng Văn Cường: Phát triển kinh tế tuần hoàn, bản thân các doanh nghiệp phải liên kết

Chia sẻ với Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập, GS.TS Hoàng Văn Cường - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, muốn phát triển kinh tế tuần hoàn, bản thân các doanh nghiệp phải liên kết với nhau, phải tạo ra sự kết nối.
Cần kiến tạo thị trường tín chỉ carbon, bảo lãnh tín dụng xanh cho doanh nghiệp SME

Cần kiến tạo thị trường tín chỉ carbon, bảo lãnh tín dụng xanh cho doanh nghiệp SME

Để chuyển đổi xanh trở thành động lực cạnh tranh, Nhà nước cần phát triển thị trường tín chỉ carbon, trái phiếu xanh, đồng thời xây dựng cơ chế bảo lãnh tín dụng giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn xanh - theo ông Đậu Anh Tuấn – Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
Chuyên gia Tô Trần Hòa: Việt Nam sẵn sàng thể chế hóa để bứt phá thị trường tài sản mã hóa

Chuyên gia Tô Trần Hòa: Việt Nam sẵn sàng thể chế hóa để bứt phá thị trường tài sản mã hóa

Việt Nam đang gấp rút hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho tài sản mã hóa theo Nghị quyết 05. Đây là cơ hội lớn để thu hút nguồn lực công nghệ và vốn ngoại, khẳng định vị thế khu vực.
TS. Nguyễn Minh Cường: Cần tự do hóa tài chính để huy động vốn hiệu quả

TS. Nguyễn Minh Cường: Cần tự do hóa tài chính để huy động vốn hiệu quả

Theo TS. Nguyễn Minh Cường, Việt Nam không thiếu vốn, nhưng chưa phân bổ và huy động hiệu quả. Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) phải là bước thí điểm cho chiến lược tự do hóa tài chính sâu rộng.
TS. Đinh Thế Hiển: Siêu lợi nhuận bất động sản đã kết thúc, thị trường xoay trục về nhu cầu thực

TS. Đinh Thế Hiển: Siêu lợi nhuận bất động sản đã kết thúc, thị trường xoay trục về nhu cầu thực

TS. Đinh Thế Hiển nhận định, thời kỳ siêu lợi nhuận bất động sản đã khép lại, thị trường đang chuyển hướng sang nhu cầu thực, buộc nhà đầu tư thay đổi tư duy.
TS. Phan Đức Hiếu: Việt Nam cần thể chế đột phá để IFC cạnh tranh toàn cầu

TS. Phan Đức Hiếu: Việt Nam cần thể chế đột phá để IFC cạnh tranh toàn cầu

Theo TS. Phan Đức Hiếu, Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) là bước đột phá thể chế để thu hút dòng vốn toàn cầu, hình thành môi trường kinh doanh cạnh tranh khu vực.
TS. Chử Đức Hoàng: Để phát triển chuỗi giá trị nông sản Việt, doanh nghiệp cần là đầu tàu dẫn dắt

TS. Chử Đức Hoàng: Để phát triển chuỗi giá trị nông sản Việt, doanh nghiệp cần là đầu tàu dẫn dắt

Chia sẻ với Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập, TS. Chử Đức Hoàng - Chánh Văn phòng, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF), Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, để phát triển chuỗi giá trị nông sản Việt, doanh nghiệp cần là đầu tàu dẫn dắt.
TS. Lê Anh Tuấn: Bán ròng và tỷ giá khiến thị trường bị đánh giá thấp

TS. Lê Anh Tuấn: Bán ròng và tỷ giá khiến thị trường bị đánh giá thấp

Khối ngoại bán ròng kỷ lục, ảnh hưởng dự trữ ngoại hối. TS. Lê Anh Tuấn cho rằng, tỷ giá cao khiến chính sách tiền tệ khó nới lỏng, thị trường đang bị đánh giá thấp.
GS. Hà Tôn Vinh: Nhiều rào cản khiến doanh nghiệp Việt khó niêm yết tại Mỹ và bài học rút ra từ Vinfast

GS. Hà Tôn Vinh: Nhiều rào cản khiến doanh nghiệp Việt khó niêm yết tại Mỹ và bài học rút ra từ Vinfast

Trong khi hàng trăm doanh nghiệp châu Á từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore cho đến Ấn Độ – đã chinh phục thành công thị trường vốn quốc tế, Việt Nam đến nay vẫn chỉ có một doanh nghiệp duy nhất niêm yết tại Mỹ: VinFast. Đó là bước tiến lịch sử, nhưng cũng là tấm gương phản chiếu cho thấy khoảng cách lớn giữa khát vọng toàn cầu và năng lực của doanh nghiệp Việt.