Giá lúa gạo tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay ghi nhận giảm ở một số loại lúa. Ngược chiều giảm, giá cám bật tăng mạnh, giá gạo các loại bình ổn.
![]() |
Giá lúa gạo hôm nay 14/6/2025: Giá cám bật tăng, giá lúa tiếp đà giảm nhẹ |
Giá gạo trong nước
Ghi nhận tại các địa phương hôm nay, chủng loại 50404, OM 380 nguồn ít, giá ít biến động, nhu cầu hỏi mua chậm. Tại An Giang, giao dịch mua bán khá chậm, nhiều kho trả giá giảm với gạo trắng. Tại Lấp Vò (Đồng Tháp), về lượng lai rai, gạo các loại tương ít biến động. Tại Sa Đéc (Đồng Tháp), lượng về ít, gạo các loại bình giá, giao dịch chậm.
Kênh chợ Sa Đéc (Đồng Tháp), lượng về lai rai, kho chợ mua chậm, giá gạo các loại bình ổn. Tại An Cư (Cái Bè, Tiền Giang), lượng về ít, gạo các loại ít biến động, giao dịch mua bán chậm.
Trong phiên sáng nay 14/6, giá gạo nguyên liệu tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long duy trì ổn định. Cụ thể, giá gạo nguyên liệu IR 504 lên mức 7.900 - 8.100 đồng/kg; CL 555 hiện ở mức 8.200 - 8.300 đồng/kg; OM 18 ở mức 10.200 - 10.400 đồng/kg; OM 380 giữ ổn định ở mức 7.850 - 7.900 đồng/kg; nguyên liệu OM 5451 giao dịch ở mức 9.450 - 9.550 đồng/kg; gạo Jasmine ở mức 17.000 - 18.000 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá gạo hôm nay 14/6/2025 |
Tại các chợ dân sinh, mặt hàng gạo bán lẻ tiếp tục đi ngang. Gạo thơm phổ biến 18.000 - 22.000 đồng/kg; gạo thơm Thái 20.000 - 22.000 đồng/kg; Hương Lài niêm yết 22.000 đồng/kg; gạo thường 15.000 - 16.000 đồng/kg; gạo Nàng Nhen vẫn giữ mức cao nhất với giá 28.000 đồng/kg.
Phân khúc nếp không ghi nhận điều chỉnh mới so với hôm qua, giá các loại nếp tươi và khô dao động ở mức 7.700 - 8.000 đồng/kg; nếp IR 4625 (khô) hiện ở mức 9.700 - 9.900 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá nếp hôm nay 14/6/2025 |
Mặt hàng phụ phẩm
Mặt hàng phụ phẩm tăng. Cụ thể, giá cám tăng vọt 450 đồng/kg, lên mức 7.900 - 8.200 đồng/kg. Trong khi đó, giá trấu thu mua ở mức 1.000 - 1.150 đồng/kg; giá tấm OM 5451 dao động trong khoảng 7.400 - 7.500 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá phụ phẩm hôm nay 14/6/2025 |
Giá lúa trong nước
Ghi nhận tại nhiều địa phương hôm nay, giao dịch lúa khô chậm, giá biến động. Tại Hậu Giang, giao dịch lúa Hè Thu thu vẫn chậm, giá dao động nhẹ. Tại Kiên Giang, lúa Hè Thu thu hồi ít, thương lái mua chậm, vắng người mua, giá một số loại lúa giảm. Tại Đồng Tháp, nguồn lúa thu hoạch lai rai, giao dịch mua bán mới chậm.
Tại An Giang, nông dân chào bán lúa Hè Thu lai rai, giao dịch mua bán mới chậm, giá một số loại lúa tươi giảm. Tại Cần Thơ, thương lái hỏi mua chậm, giao dịch chậm, giá xu hướng giảm. Tại Long An, giá lúa khu vực Vĩnh Hưng, Tân Long nông dân chào giá vững.
Theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, ở một số loại lúa hôm nay tiếp tục giảm so với hôm qua. Cụ thể, giá thu mua lúa OM 5451 giảm 200 đồng/kg, xuống còn 5.700 - 6.000 đồng/kg; lúa OM 18 (tươi) giảm 100 đồng/kg về mốc 6.100 đồng/kg.
![]() |
Bảng giá gạo hôm nay 14/6/2025 |
Ở các chủng loại khác, giá nhìn chung vẫn ổn định. Hiện, Nàng Hoa 9 đang dao động ở mức 6.650 - 6.750 đồng/kg; Đài Thơm 8 (tươi) trong khoảng 6.300 - 6.500 đồng/kg; IR 50404 (tươi) từ 5.400 - 5.600 đồng/kg; OM 380 (tươi) có giá thấp nhất là 5.200 – 5.400 đồng/kg.
Tại thị trường xuất khẩu
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá gạo xuất khẩu của Việt Nam hôm nay ổn định. Cụ thể, giá gạo 100% tấm xuất khẩu của Việt Nam hiện ở mức 318 USD/tấn; gạo 25% tấm giữ ở mức 364 USD/tấn.
Theo Reuters, giá gạo tại các trung tâm lớn của châu Á tiếp tục giảm trong tuần này khi nguồn cung gia tăng mạnh, và nhu cầu từ các nhà nhập khẩu dần hạ nhiệt. Mức giá hiện tại của gạo 5% tấm từ các quốc gia chủ lực như Ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam đều thấp hơn đáng kể so với giai đoạn cao điểm.
Tại Ấn Độ, giá gạo đồ 5% tấm xuống chỉ còn 378 - 384 USD/tấn - mức thấp nhất trong vòng hai năm. Gạo trắng 5% tấm cũng giảm còn 372 - 377 USD/tấn. Nguyên nhân chủ yếu đến từ lượng dự trữ quốc gia khổng lồ, lên tới 59,5 triệu tấn tính đến ngày 1/6, vượt xa mục tiêu chỉ 13,5 triệu tấn của chính phủ. Dù các nhà xuất khẩu đã điều chỉnh giá xuống trong nhiều tuần, nhu cầu vẫn không được cải thiện, cho thấy người mua đang tận dụng thời điểm dư cung để chờ giá giảm thêm.
Tương tự, Thái Lan cũng ghi nhận mức giá giảm mạnh từ 410 USD/tấn ,xuống còn 398 USD/tấn do đồng Baht suy yếu và nhu cầu chững lại. Tại Philippines, khách hàng truyền thống đã giảm nhập khẩu, trong khi Indonesia chuyển hướng sang xuất khẩu đã khiến thị trường khu vực rơi vào thế dư cung cục bộ, kéo giảm giá sâu hơn.
Tại Việt Nam, dù đang vào vụ thu hoạch lớn, giá gạo 5% tấm chỉ còn 388 USD/tấn, giảm 8 USD so với tuần trước. Xuất khẩu gạo trong tháng 5 cũng giảm gần 10% so với cùng kỳ năm 2024, cho thấy mức độ tiêu thụ quốc tế đang chậm lại. Thương nhân trong nước nhận định dù chất lượng và sản lượng đều tốt, nhưng việc các thị trường lớn không tăng đơn hàng khiến giá bán chịu áp lực.
Tình trạng này cũng lặp lại ở Bangladesh khi chính phủ nước này gặp khó khăn trong kế hoạch thu mua nội địa. Mức giá thu mua dù đã tăng 9% nhưng vẫn không đủ hấp dẫn nông dân do giá thị trường cao hơn. Tổng thể, thị trường gạo châu Á đang trong giai đoạn cung vượt cầu rõ rệt, buộc các quốc gia xuất khẩu phải thích ứng linh hoạt với cuộc chơi giá cả đầy biến động này.