![]() |
Tiến sĩ Chử Đức Hoàng – Chủ tịch Viện Chiến lược Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (STI); Chánh Văn phòng Quỹ Đổi mới Công nghệ Quốc gia (NATIF) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ chia sẻ về ưu đãi cho doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. |
PV: Thưa ông, theo góp ý của Bộ Tư pháp, nhóm đối tượng được hưởng ưu đãi thuế như “tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo” hiện chưa có quy định cụ thể trong Luật. Việc chưa có tiêu chí định danh rõ ràng này đã gây ra những khó khăn gì trong quá trình áp dụng chính sách?
TS. Chử Đức Hoàng: Trước hết, tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo” là các đơn vị không trực tiếp làm sản phẩm hay dịch vụ khởi nghiệp, nhưng đóng vai trò cầu nối, hỗ trợ các startup phát triển thông qua các hoạt động như ươm tạo doanh nghiệp, kết nối đầu tư, tư vấn pháp lý, đào tạo và các sự kiện liên quan...
Việc chưa có tiêu chí định danh rõ ràng gây ra ít nhất ba khó khăn đáng kể trong thực tiễn. Thứ nhất, cơ quan quản lý, thuế và kiểm toán gặp khó khi xác định một đơn vị có đúng là “tổ chức trung gian” hay không, dẫn tới cùng một đối tượng nhưng cách xử lý lại khác nhau giữa các địa phương. Thứ hai, khoảng trống pháp lý dễ bị lợi dụng: một số tổ chức có thể “khoác áo trung gian” để được hưởng ưu đãi mà không thực hiện đúng chức năng hỗ trợ đổi mới sáng tạo như ươm tạo, mentoring hay kết nối đầu tư. Cuối cùng, không thể đánh giá được hiệu quả chính sách khi không xác định rõ ai là đối tượng thụ hưởng thực sự. Do đó, cần sớm ban hành bộ tiêu chí minh bạch để phân biệt rõ giữa tổ chức thực chất làm đổi mới sáng tạo và những đơn vị chỉ mang tính thương mại.
PV: Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất mở rộng khái niệm “công ty quản lý quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo” thành “công ty quản lý quỹ đầu tư đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo”. Theo ông, việc thống nhất này có ý nghĩa như thế nào?
TS. Chử Đức Hoàng: Việc thống nhất thuật ngữ là cần thiết để đảm bảo tính pháp lý và thực tiễn. Điều này không chỉ giúp tránh chồng chéo giữa các văn bản mà còn làm rõ phạm vi ưu đãi. Khi thêm cụm “đổi mới sáng tạo”, chính sách không còn bó hẹp trong khởi nghiệp thuần công nghệ mà bao quát cả các dự án nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, hay các spin-off từ viện – trường (doanh nghiệp tách ra từ viện nghiên cứu, trường đại học). Điều đó phản ánh đúng bản chất của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo hiện nay, nơi không chỉ startup, mà cả doanh nghiệp và viện nghiên cứu đều là chủ thể sáng tạo.
PV: Bộ Tư pháp cũng cho rằng việc quy định lại các trường hợp miễn, giảm thuế trong Dự thảo có thể vượt thẩm quyền của Chính phủ. Theo ông, nếu Bộ Tài chính chỉ hướng dẫn thực hiện theo Nghị quyết 198 thì sẽ tháo gỡ được điểm nghẽn này ra sao?
TS. Chử Đức Hoàng: Khi Nghị định được soạn đúng tinh thần “hướng dẫn thực hiện” thay vì mở rộng, tính pháp lý và minh bạch sẽ được bảo đảm. Nghị định nên tập trung làm rõ quy trình áp dụng, tiêu chí xác nhận và trách nhiệm các cơ quan liên quan, thay vì ban hành thêm nội dung vượt thẩm quyền. Cách làm này giúp thống nhất cách hiểu, tránh khiếu nại và tăng tính dự báo cho doanh nghiệp.
PV: Một số doanh nghiệp nhỏ và vừa thành lập trước khi Nghị quyết có hiệu lực băn khoăn liệu họ có được tiếp tục hưởng ưu đãi cho phần thời gian còn lại hay không?
TS. Chử Đức Hoàng: Quy định tại Khoản 3, Điều 6 của Dự thảo cho phép tiếp tục hưởng ưu đãi là rất nhân văn và đúng đắn. Nó bảo đảm nguyên tắc “không hồi tố bất lợi” và duy trì lòng tin pháp lý. Doanh nghiệp khởi nghiệp thường đầu tư dài hạn, nên việc bảo lưu phần ưu đãi còn lại giúp họ ổn định kế hoạch tài chính, tiếp tục R&D, mở rộng thị trường. Tuy nhiên, cũng cần cơ chế rà soát để bảo đảm các doanh nghiệp này thực sự đáp ứng tiêu chí về đổi mới sáng tạo.
PV: Dự thảo hiện quy định 5 nhóm đối tượng được ưu đãi, trong đó có tổ chức trung gian hỗ trợ. Nhưng khi tiêu chí xác định vẫn chưa rõ, việc quản lý và giám sát thực thi sẽ gặp những thách thức gì?
TS. Chử Đức Hoàng: Thách thức lớn nhất là phân loại và giám sát sai đối tượng. Nếu tiêu chí không rõ, dễ dẫn đến việc cấp ưu đãi sai hoặc bỏ sót đơn vị xứng đáng. Tôi cho rằng cần một cơ chế chứng nhận độc lập, có sự tham gia của các hiệp hội nghề nghiệp, để công nhận và tái kiểm tra định kỳ. Đồng thời, yêu cầu các tổ chức trung gian báo cáo minh bạch về số lượng startup hỗ trợ, nguồn vốn huy động, kết quả thương mại hóa. Khi dữ liệu được công khai, cơ quan thuế và Bộ KH&CN có thể kiểm soát hiệu quả hơn. Cuối cùng, cần xử lý nghiêm các trường hợp trục lợi để bảo đảm tính liêm chính và công bằng của chính sách.
![]() |
TS. Chử Đức Hoàng (thứ 2 từ trái sang) chụp ảnh lưu niệm cùng lãnh đạo Tập đoàn Ubion Hàn Quốc sau buổi làm việc về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. |
PV: Vậy Viện trưởng có đề xuất hay khuyến nghị nào dành cho các doanh nghiệp công nghệ khởi nghiệp muốn được hưởng ưu đãi theo Nghị quyết 198/2025/QH15 không?
TS. Chử Đức Hoàng: Trước hết, doanh nghiệp cần hiểu rằng ưu đãi thuế không phải là “đặc quyền”, mà là một chính sách khuyến khích có điều kiện. Muốn được thụ hưởng, doanh nghiệp phải chủ động chuẩn bị hồ sơ, minh chứng rõ ràng cho hoạt động đổi mới sáng tạo của mình, từ đầu tư R&D, sở hữu trí tuệ, sản phẩm công nghệ mới cho đến các kết quả thương mại hóa cụ thể.
Tôi khuyến nghị ba hướng hành động thực tiễn. Thứ nhất, ngay từ khi thành lập, doanh nghiệp nên đăng ký và cập nhật thông tin với các cơ quan chuyên môn thuộc Bộ KH&CN hoặc Sở KH&CN địa phương để được xác nhận là doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Việc này giúp quá trình thẩm định ưu đãi sau này minh bạch và thuận lợi hơn. Thứ hai, cần xây dựng hệ thống quản trị và báo cáo nội bộ bài bản, đặc biệt là báo cáo chi cho nghiên cứu – phát triển, chi phí sở hữu trí tuệ, và hồ sơ hợp tác với các viện, trường, quỹ đầu tư… vì đây là những tiêu chí trọng yếu khi xét ưu đãi. Thứ ba, doanh nghiệp nên chủ động kết nối với các tổ chức trung gian uy tín như quỹ đầu tư, vườn ươm, trung tâm hỗ trợ đổi mới sáng tạo, bởi đây sẽ là cầu nối quan trọng giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý, giúp bảo đảm tính pháp lý, minh bạch và tính liên kết trong hồ sơ xin ưu đãi.
Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh rằng chính sách ưu đãi chỉ phát huy hiệu quả khi cả Nhà nước và doanh nghiệp cùng hành động có trách nhiệm. Doanh nghiệp phải chứng minh được giá trị đổi sáng tạo thực chất, còn cơ quan quản lý cần tạo điều kiện, hướng dẫn kịp thời để chính sách thực sự trở thành đòn bẩy cho phát triển công nghệ Việt Nam.
Trân trọng cảm ơn ông!