Thứ sáu 14/11/2025 14:33
Hotline: 024.355.63.010
Góc nhìn Chuyên gia

Tranh chấp thương mại quốc tế doanh nghiệp nên thông qua hiệp hội và cơ quan đại diện của Việt Nam tại nước ngoài

10/07/2024 09:32
Có nhiều tranh chấp về chất lượng hàng hóa, doanh nghiệp cần nghiêm túc xem lại mình vì vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến uy tín quốc gia, ông Trần Việt Anh, PCT Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM cho biết.
Ảnh minh họa

Xin ông cho biết các tranh chấp về thương mại giữa doanh nghiệp Việt Nam và đối tác nước ngoài trong thời gian qua như thế nào?

Ông Trần Việt Anh: Các tranh chấp về ngoại thương, đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu (XNK), chủ yếu tập trung vào xuất khẩu. Những tranh chấp này đa phần liên quan đến chất lượng hàng hóa, thời gian giao hàng, và sự không trung thực của bên bán hoặc bên mua. Sự không trung thực thường xảy ra, khi khách hàng muốn hủy đơn hàng và viện lý do liên quan đến quy định của nước mình để gây khó khăn cho người bán.

Một tranh chấp khác thường gặp là do thất thoát hàng hóa trong quá trình vận chuyển từ cảng nước bán đến cảng nước mua, dẫn đến việc đối tác từ chối nhận hàng và yêu cầu bồi thường. Một tranh chấp phổ biến nữa là hàng hóa đã được lấy ra khỏi cảng nhưng chứng từ gốc vẫn còn ở người bán, chưa được gửi đi.

Những nội dung tranh chấp này không mới, nhưng trong nhiều năm qua vẫn thường xảy ra do doanh nghiệp chưa am hiểu về vấn đề này. Một khó khăn lớn là gần như tất cả những tranh chấp đó không được đưa ra tòa án quốc tế vì chi phí pháp lý quốc tế quá cao và rủi ro lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam.

Vậy doanh nghiệp cần làm gì để hạn chế rủi ro pháp lý khi thực hiện hoạt động XNK, thưa ông?

Ông Trần Việt Anh: Trước tiên, doanh nghiệp cần tìm hiểu và xác định rõ đối tác trong các hoạt động liên quan đến XNK của mình, như logistics và ngân hàng. Doanh nghiệp không cần hiểu rõ về pháp lý đối ngoại hay thư tín dụng (LC), mà nên thông qua ngân hàng. Tất cả chứng từ thanh toán, đặt cọc... cần được thực hiện qua ngân hàng. Hiện nay, nhiều người Việt Nam mua bán với nước ngoài thường làm việc trực tiếp với đối tác, có thể chỉ đặt một ít tiền cọc rồi giao hàng luôn; sau đó, gửi thẳng bộ chứng từ hoặc ra lệnh cho đối tác nhận hàng mà không thực hiện qua ngân hàng.

Điều quan trọng là lựa chọn hãng tàu. Hiện nay, nhiều nhà xuất khẩu Việt Nam đang gửi hàng qua các đại lý nhỏ, với chỉ 1-2 nhân viên, nhưng họ thực chất là nhân viên của các hãng tàu lớn làm việc bên ngoài. Vì vậy, nên chọn các hãng tàu lớn, có uy tín để đảm bảo không mất uy tín và thương hiệu chỉ vì 1-2 container hàng hóa.

Một lưu ý nữa là về đối tác. Đối tác rất quan trọng, đặc biệt khi là đối tác ban đầu, cần có những thỏa thuận và cam kết chặt chẽ. Chúng ta cần thăm dò và biết rõ đối tác như thế nào. Đặc biệt, với đối tác ban đầu, pháp lý không quan trọng bằng thanh toán; cần đảm bảo nhận đủ tiền khi khách hàng lấy hàng. Khi khách hàng là đối tác truyền thống, đã làm ăn với nhau 10-20 năm, hầu như các thủ tục pháp lý không cần thiết, có thể thanh toán bằng LC 60 ngày hoặc TT 100 ngày mà không cần chứng từ gì cả, đó là sự tin cậy. Do đó, việc xây dựng đội ngũ đối tác nước ngoài ổn định, bền vững và truyền thống là điều quan trọng nhất.

Vậy nếu doanh nghiệp vướng vào một vài tranh chấp thương mại, lời khuyên của ông là gì?

Ông Trần Việt Anh: Khi bị vướng vào tranh chấp thương mại, doanh nghiệp cần làm việc lại với đối tác tín dụng và ngân hàng của mình để hiểu rõ tại sao tranh chấp xảy ra mà phía ngân hàng không biết. Tốt nhất, doanh nghiệp nên thông qua hiệp hội doanh nghiệp của mình. Ví dụ, nếu doanh nghiệp xuất khẩu điều bị thất thoát hàng hóa, Hiệp hội Điều nên lên tiếng và làm việc với đại diện Việt Nam ở khu vực xảy ra vụ việc. Đồng thời, doanh nghiệp cần tập hợp những người có rủi ro tương tự để xem xét khả năng tiến hành các biện pháp pháp lý.

Tuy nhiên, theo tôi biết, việc tiến hành pháp lý với đối tác nước ngoài rất khó khăn và chi phí tài chính có thể gấp nhiều lần giá trị lô hàng. Đặc biệt, pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, trong khi đối tác nước ngoài luôn có văn phòng luật sư chuyên nghiệp. Chúng ta thường không có luật sư, đến khi xảy ra vấn đề mới bắt đầu làm hồ sơ từ đầu. Do đó, doanh nghiệp nên thông qua hiệp hội và cơ quan đại diện của Việt Nam tại nước ngoài. Quan trọng là phải hiểu rõ đối tác và thị trường, nhà xuất khẩu phải đánh giá đầy đủ rủi ro. Thực tế, có những vùng mà các nhà xuất khẩu Việt Nam không muốn làm ăn vì rủi ro rất cao, nhưng cũng có những thị trường văn minh, rất ít khi xảy ra tranh chấp.

Trong thời gian qua, có nhiều tranh chấp về chất lượng hàng hóa, doanh nghiệp cần nghiêm túc xem lại mình vì vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến uy tín quốc gia. Với các tranh chấp về tài chính, doanh nghiệp cần có bộ phận pháp lý, hiểu biết về luật quốc tế và kinh nghiệm xử lý các tranh chấp quốc tế tại nước sở tại.

Xin cảm ơn ông về những chia sẻ.

Bình Anh

Bài liên quan
Tin bài khác
PGS.TS. Ngô Thị Phương Thảo: Điều tiết thị trường bất động sản cần tìm "ngưỡng" an toàn vĩ mô

PGS.TS. Ngô Thị Phương Thảo: Điều tiết thị trường bất động sản cần tìm "ngưỡng" an toàn vĩ mô

Theo PGS. TS Ngô Thị Phương Thảo, thị trường bất động sản đang chuyển từ "tiền tệ hóa" sang "tài chính hóa" với tính chu kỳ rõ rệt, đặt ra thách thức lớn về an toàn hệ thống tài chính và khả năng tiếp cận nhà ở.
Hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới: Chủ động, chọn lọc và bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia

Hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới: Chủ động, chọn lọc và bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia

Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới được đánh giá là kim chỉ nam chiến lược, thể hiện tầm nhìn dài hạn của Việt Nam trong tiến trình hội nhập sâu rộng. Theo TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Vietnam, đây không chỉ là sự nối dài của đường lối mở cửa suốt ba thập niên qua, mà còn là bước chuyển mang tính bản lề: từ hội nhập để thích nghi sang hội nhập để định hình cuộc chơi.
TS. Cấn Văn Lực: 10.000 tỷ – tấm vé vào cuộc chơi tài sản số

TS. Cấn Văn Lực: 10.000 tỷ – tấm vé vào cuộc chơi tài sản số

TS. Cấn Văn Lực cho biết, Việt Nam có 21 triệu nhà đầu tư tài sản mã hóa với doanh số 200 tỷ USD, cần cơ chế vốn 10.000 tỷ và ủy thác đầu tư để giữ dòng vốn ở lại.
GS.TS Hoàng Văn Cường: Phát triển kinh tế tuần hoàn, bản thân các doanh nghiệp phải liên kết

GS.TS Hoàng Văn Cường: Phát triển kinh tế tuần hoàn, bản thân các doanh nghiệp phải liên kết

Chia sẻ với Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập, GS.TS Hoàng Văn Cường - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, muốn phát triển kinh tế tuần hoàn, bản thân các doanh nghiệp phải liên kết với nhau, phải tạo ra sự kết nối.
Cần kiến tạo thị trường tín chỉ carbon, bảo lãnh tín dụng xanh cho doanh nghiệp SME

Cần kiến tạo thị trường tín chỉ carbon, bảo lãnh tín dụng xanh cho doanh nghiệp SME

Để chuyển đổi xanh trở thành động lực cạnh tranh, Nhà nước cần phát triển thị trường tín chỉ carbon, trái phiếu xanh, đồng thời xây dựng cơ chế bảo lãnh tín dụng giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn xanh - theo ông Đậu Anh Tuấn – Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
Chuyên gia Tô Trần Hòa: Việt Nam sẵn sàng thể chế hóa để bứt phá thị trường tài sản mã hóa

Chuyên gia Tô Trần Hòa: Việt Nam sẵn sàng thể chế hóa để bứt phá thị trường tài sản mã hóa

Việt Nam đang gấp rút hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho tài sản mã hóa theo Nghị quyết 05. Đây là cơ hội lớn để thu hút nguồn lực công nghệ và vốn ngoại, khẳng định vị thế khu vực.
TS. Nguyễn Minh Cường: Cần tự do hóa tài chính để huy động vốn hiệu quả

TS. Nguyễn Minh Cường: Cần tự do hóa tài chính để huy động vốn hiệu quả

Theo TS. Nguyễn Minh Cường, Việt Nam không thiếu vốn, nhưng chưa phân bổ và huy động hiệu quả. Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) phải là bước thí điểm cho chiến lược tự do hóa tài chính sâu rộng.
TS. Đinh Thế Hiển: Siêu lợi nhuận bất động sản đã kết thúc, thị trường xoay trục về nhu cầu thực

TS. Đinh Thế Hiển: Siêu lợi nhuận bất động sản đã kết thúc, thị trường xoay trục về nhu cầu thực

TS. Đinh Thế Hiển nhận định, thời kỳ siêu lợi nhuận bất động sản đã khép lại, thị trường đang chuyển hướng sang nhu cầu thực, buộc nhà đầu tư thay đổi tư duy.
TS. Phan Đức Hiếu: Việt Nam cần thể chế đột phá để IFC cạnh tranh toàn cầu

TS. Phan Đức Hiếu: Việt Nam cần thể chế đột phá để IFC cạnh tranh toàn cầu

Theo TS. Phan Đức Hiếu, Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) là bước đột phá thể chế để thu hút dòng vốn toàn cầu, hình thành môi trường kinh doanh cạnh tranh khu vực.
TS. Chử Đức Hoàng: Để phát triển chuỗi giá trị nông sản Việt, doanh nghiệp cần là đầu tàu dẫn dắt

TS. Chử Đức Hoàng: Để phát triển chuỗi giá trị nông sản Việt, doanh nghiệp cần là đầu tàu dẫn dắt

Chia sẻ với Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập, TS. Chử Đức Hoàng - Chánh Văn phòng, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF), Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, để phát triển chuỗi giá trị nông sản Việt, doanh nghiệp cần là đầu tàu dẫn dắt.
TS. Lê Anh Tuấn: Bán ròng và tỷ giá khiến thị trường bị đánh giá thấp

TS. Lê Anh Tuấn: Bán ròng và tỷ giá khiến thị trường bị đánh giá thấp

Khối ngoại bán ròng kỷ lục, ảnh hưởng dự trữ ngoại hối. TS. Lê Anh Tuấn cho rằng, tỷ giá cao khiến chính sách tiền tệ khó nới lỏng, thị trường đang bị đánh giá thấp.
GS. Hà Tôn Vinh: Nhiều rào cản khiến doanh nghiệp Việt khó niêm yết tại Mỹ và bài học rút ra từ Vinfast

GS. Hà Tôn Vinh: Nhiều rào cản khiến doanh nghiệp Việt khó niêm yết tại Mỹ và bài học rút ra từ Vinfast

Trong khi hàng trăm doanh nghiệp châu Á từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore cho đến Ấn Độ – đã chinh phục thành công thị trường vốn quốc tế, Việt Nam đến nay vẫn chỉ có một doanh nghiệp duy nhất niêm yết tại Mỹ: VinFast. Đó là bước tiến lịch sử, nhưng cũng là tấm gương phản chiếu cho thấy khoảng cách lớn giữa khát vọng toàn cầu và năng lực của doanh nghiệp Việt.
GS. TS Hoàng Xuân Cơ: Cơ chế khiến doanh nghiệp không thể biến rác thành vàng

GS. TS Hoàng Xuân Cơ: Cơ chế khiến doanh nghiệp không thể biến rác thành vàng

Doanh nghiệp xử lý rác thải gặp khó vì chính sách phân bổ vốn và ưu đãi thiếu hợp lý. GS. TS Hoàng Xuân Cơ cho rằng: "Rác là tài nguyên quý giá" nhưng bị vứt bỏ do lỗ hổng chính sách.
TS. Nguyễn Văn Nghị: AI là động lực chuyển đổi giáo dục nghề nghiệp

TS. Nguyễn Văn Nghị: AI là động lực chuyển đổi giáo dục nghề nghiệp

Theo TS. Nguyễn Văn Nghị, AI mang đến cơ hội vàng cho giáo dục nghề nghiệp, nhưng đang vấp phải ba khoảng trống lớn về hạ tầng, dữ liệu và năng lực giáo viên cần giải quyết để vươn mình.
PGS. TS Phạm Quang Thao: AI là công cụ giải pháp cấp thiết cho nguồn nhân lực

PGS. TS Phạm Quang Thao: AI là công cụ giải pháp cấp thiết cho nguồn nhân lực

Theo PGS. TS Phạm Quang Thao, AI là công cụ quan trọng trong quản lý nhân viên và đội ngũ giảng viên, giúp tự động hóa quy trình, cải thiện hiệu quả làm việc trong bối cảnh hiện nay.