Quy định về việc miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế

17:06 18/06/2021

Người nộp thuế bị xử phạt vi phạm pháp luật về thuế có quyền đề nghị miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế trong trường hợp gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc trường hợp bất khả kháng khác.

Khoản 1 và Khoản 3 Điều 25 Nghị định 98/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế đã hướng dẫn về việc miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế và thẩm quyền miễn xử phạt

Khoản 1 và Khoản 3 Điều 25 Nghị định 98/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế đã hướng dẫn về việc miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế và thẩm quyền miễn xử phạt. (Ảnh: minh họa)

Theo Tổng cục Thuế, giai đoạn trước ngày 01/07/2013 (Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 có hiệu lực), tại Khoản 1, Điều 111 Luật Quản lý thuế ngày 29/11/2006 quy định về việc miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế như sau: “Người bị xử phạt vi phạm pháp luật về thuế có quyền đề nghị miễn xử phạt vì phạm pháp luật về thuế trong trường hợp gặp thiên tai, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc trường hợp bất khả kháng khác”.

Khoản 1 và Khoản 3 Điều 25 Nghị định 98/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế đã hướng dẫn về việc miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế và thẩm quyền miễn xử phạt.

Theo đó, người nộp thuế bị xử phạt vi phạm pháp luật về thuế có quyền đề nghị miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế trong trường hợp gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc trường hợp bất khả kháng khác. Mức miễn phạt tối đa không quá giá trị tài sản, hàng hoá bị thiệt hại.

Thủ trưởng cơ quan thuế có trách nhiệm xem xét miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế khi nhận được hồ sơ đề nghị miễn xử phạt của người nộp thuế đối với các vụ việc thuộc thẩm quyền xử lý của mình hoặc của cấp dưới theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Tại Khoản 1, Mục XIII phần E Thông tư số 61/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện xử lý vi phạm pháp luật về thuế quy định: Người nộp thuế bị xử phạt vi phạm pháp luật về thuế có quyền đề nghị miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế trong trường hợp gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc trường hợp bất khả kháng khác.

Theo Tổng cục Thuế, sau thời điểm 01/07/2013 (Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 có hiệu lực), Khoản 32 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 quy định Điều 106 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Xử lý đổi với việc chậm nộp tiền thuế: Người nộp thuế chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định, thời hạn gia hạn nộp thuế, thài hạn ghi trong thông bảo của cơ quan quản lý thuế, thời hạn trong quyết định xử lý của cơ quan quản lý thuế thì phải nộp đủ tiền thuế và tiền chậm nộp theo mức lũy tiến 0,05%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp đối với số ngày chậm nộp không quá 90 ngày; 0,07%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp đối với số ngày chậm nộp vượt quá thời hạn 90 ngày”.

Luật sửa đổi bổ sung Luật Quản lý thuế số 71/2014/QH13 quy định Khoản 4 Điều 5 sửa đổi bổ sung Khoản 1 Điều 106 như sau: “Người nộp thuế chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định, thời hạn gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan quản lý thuế, thời hạn trong quyết định xử lý của cơ quan quản lý thuế thì phải nộp đủ tiền thuế và tiền chậm nộp theo mức 0,05%/ngày tính trên sổ tiền thuế chậm nộp". Khoản 1 Điều 6 Luật Sửa đổi bổ sung Luật Quản lý thuế số 71/2014/QH13 quy định Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015.

Bên cạnh đó, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế số 106/2016/QH13 quy định: Người nộp thuế chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định, thời hạn gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan quản lý thuế, thời hạn trong quyết định xử lý của cơ quan quản lý thuế thì phải nộp đủ tiền thuế và tiền chậm nộp theo mức bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp” (Khoản 3 Điều 3). Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016.

Nguồn: mof.gov.vn