![]() |
Chuẩn hóa định giá, mở rộng hợp tác: Kỳ vọng vận hành thị trường carbon rừng minh bạch và hiệu quả |
Ngày 13/8, bản dự thảo mới nhất của Nghị định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng do Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm chủ trì soạn thảo đã chính thức được công bố. Dự thảo lần này bổ sung nhiều quy định đột phá, đặc biệt là việc chuẩn hóa quy trình định giá, mở rộng cơ chế hợp tác và tài chính – bước tiến quan trọng hướng đến một thị trường carbon rừng vận hành minh bạch, hiệu quả và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
Lần đầu tiên có lộ trình định giá carbon rừng cụ thể
Nếu như trước đây, quy định về định giá carbon rừng chỉ dừng ở phương pháp do Bộ ban hành và UBND tỉnh xây dựng bảng giá, thì nay, dự thảo mới đã bổ sung quy trình định giá chi tiết với đầy đủ các bước: đề xuất giá khởi điểm, kiểm tra hồ sơ, phê duyệt, công khai ít nhất 30 ngày, đàm phán và ký hợp đồng hoặc niêm yết trên sàn giao dịch.
Thời hạn xử lý cho từng bước được quy định rõ, dao động từ 5 đến 45 ngày làm việc. Dự án sẽ được công khai toàn diện từ vị trí, diện tích, giá khởi điểm đến điều kiện tham gia, bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong toàn bộ quy trình.
Tín chỉ carbon rừng: Không chỉ là con số, mà là giá trị thực
![]() |
Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm Trần Quang Bảo: 'Nghị định mới sẽ phục vụ cả mục tiêu môi trường và phát triển kinh tế'. Ảnh: NN&MT |
Tại hội thảo tham vấn ngày 15/8, các chuyên gia cảnh báo: trữ lượng carbon chỉ là bước đầu, tín chỉ chỉ có giá trị khi được đo đạc, báo cáo, thẩm định độc lập và được cấp bởi tổ chức quản lý tiêu chuẩn quốc tế (MRV).
Một tín chỉ đủ tiêu chuẩn để giao dịch không chỉ cần minh bạch và chính xác về số liệu mà còn phải bảo đảm an toàn môi trường – xã hội, có sự tham gia của cộng đồng, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, và tuân thủ nghiêm ngặt cơ chế chia sẻ lợi ích.
Ngoài ra, nhiều ý kiến bày tỏ lo ngại về chi phí tạo tín chỉ, từ thực hiện các biện pháp giảm nhẹ phát thải, xây dựng hồ sơ, đo đạc, báo cáo, đến duy trì tài khoản đăng ký. Rủi ro từ thiên tai, cháy rừng, dịch hại hoặc thay đổi chính sách cũng là những yếu tố có thể làm tín chỉ bị hủy hoặc không được công nhận, ảnh hưởng đến tính toàn vẹn và uy tín thị trường.
Tách bạch cơ chế hợp tác – Tạo hành lang pháp lý rõ ràng
Dự thảo lần này đã tách riêng cơ chế hợp tác và liên kết theo loại hình sở hữu rừng. Với rừng ngoài sở hữu toàn dân, chủ rừng có thể hợp tác với tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế (có điều kiện đầu tư), đồng thời thành lập ban điều phối dự án theo mẫu hợp đồng chuẩn.
Ngược lại, với rừng thuộc sở hữu toàn dân, các tổ chức quản lý rừng phải lập đề án hợp tác theo mẫu, trình cơ quan thẩm định và chờ phê duyệt tối đa 30 ngày. Nếu sau 24 tháng mà dự án không được triển khai, hợp đồng sẽ bị hủy, trừ các tình huống bất khả kháng.
Ngoài ra, đối với các chủ rừng có diện tích liền kề hoặc xen kẽ với dự án, quy trình tham gia cũng được quy định chi tiết, bao gồm thời hạn nộp đơn, kiểm tra, cam kết và phê duyệt.
Minh bạch – Liên kết – Hiệu quả: Bộ ba then chốt trong nghị định mới về carbon rừng
Dự thảo mở rộng cơ chế tài chính bằng cách cho phép Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng các cấp được trích tối đa 5% tổng số tiền thực thu để đầu tư cho các hoạt động như xây dựng phương pháp định giá, mua sắm thiết bị, bảo vệ và phòng cháy chữa cháy rừng.
Chủ rừng là các tổ chức ngoài doanh nghiệp cũng được sử dụng nguồn thu để thúc đẩy sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp kết hợp, cải thiện sinh kế, bảo tồn đa dạng sinh học, và phát triển mô hình du lịch sinh thái, tham quan học tập.
Hệ thống mẫu biểu đi kèm dự thảo cũng được mở rộng đáng kể, gồm: hợp đồng hợp tác, đề án dự án, đơn tham gia, bản cam kết, biên bản kiểm tra, danh sách chủ rừng, kế hoạch tài chính… giúp tăng tính sẵn sàng và khả năng triển khai ngay sau khi nghị định được ban hành.
Rừng – Tài nguyên chiến lược trong mục tiêu phát thải ròng bằng 0
Ông Trần Quang Bảo – Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm – khẳng định: rừng sẽ đóng vai trò trụ cột trong lộ trình đưa Việt Nam về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Với hơn 14,85 triệu ha rừng, Việt Nam không chỉ có dư địa lớn để hấp thụ carbon mà còn có thể huy động nguồn lực tài chính quốc tế thông qua giao dịch tín chỉ carbon.
Tuy nhiên, ông cũng thẳng thắn thừa nhận: "Hệ thống pháp luật về tín chỉ carbon rừng vẫn chưa hoàn chỉnh". Các nghị định hiện hành như 06/2022, 08/2022 hay thỏa thuận thí điểm với Ngân hàng Thế giới mới chỉ áp dụng trong phạm vi hạn chế, chưa đủ để triển khai toàn diện.
Hiện Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang khẩn trương hoàn thiện dự thảo, dự kiến trình Chính phủ vào tháng 9/2025. Trong quá trình xây dựng, cơ quan chủ trì đã tổ chức nhiều hội thảo kỹ thuật, tham vấn rộng rãi các bộ ngành, địa phương, tổ chức quốc tế và cộng đồng khoa học nhằm đảm bảo tính khả thi, minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế.
“Chúng tôi mong muốn tiếp tục nhận được sự đóng góp từ các bên liên quan để sớm đưa nghị định vào cuộc sống, tạo ra hệ sinh thái tín chỉ carbon hiệu quả, phục vụ cả mục tiêu môi trường và phát triển kinh tế,” ông Bảo nhấn mạnh.