![]() |
Bảo hiểm thất nghiệp: Bài toán lợi ích rõ ràng khi đóng 1%, hưởng 60% |
Luật Việc làm 2025: Mở rộng bảo hiểm thất nghiệp, gia cố lưới an sinh xã hội
Từ ngày 1/1/2026, Luật Việc làm sửa đổi năm 2025 sẽ chính thức có hiệu lực, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc mở rộng diện bao phủ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Với hàng triệu người lao động (NLĐ) được bổ sung vào nhóm tham gia, chính sách này không chỉ gia tăng số lượng người được bảo vệ khi mất việc làm mà còn khẳng định vai trò then chốt của BHTN trong hệ thống an sinh xã hội.
Bảo hiểm thất nghiệp được xác định là một trong ba trụ cột chính của hệ thống bảo hiểm xã hội, bên cạnh bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế. Theo Luật Việc làm, BHTN là chế độ hỗ trợ NLĐ bù đắp một phần thu nhập khi mất việc, đồng thời tạo điều kiện để họ học nghề và nhanh chóng quay lại thị trường lao động.
Không giống các loại hình bảo hiểm khác, BHTN hoạt động trên nguyên tắc chia sẻ rủi ro: toàn bộ NLĐ trong nền kinh tế đều tham gia đóng góp, nhưng chỉ những người rơi vào tình trạng thất nghiệp mới được thụ hưởng. Cơ chế này góp phần chia sẻ gánh nặng tài chính, giảm thiểu tác động tiêu cực của việc mất thu nhập đột ngột đối với NLĐ và gia đình họ.
![]() |
Đóng 1%, hưởng 60% – bài toán lợi ích rõ ràng
Hiện nay, mức đóng BHTN được quy định tối đa là 3% tiền lương tháng của NLĐ. Trong đó, doanh nghiệp đóng 1%, nhà nước hỗ trợ 1% và bản thân người lao động chỉ phải đóng 1%. Như vậy, mỗi năm, Quỹ BHTN thu về tối đa 36% tiền lương tháng của NLĐ, nhưng phần NLĐ trực tiếp đóng chỉ chiếm 12%.
Mức hưởng lại rất đáng kể. Cụ thể, khi đủ điều kiện, NLĐ được nhận trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức lương bình quân của 6 tháng gần nhất trước khi mất việc. Về thời gian hưởng, nếu NLĐ có từ 12 tháng đến dưới 36 tháng đóng BHTN thì được hưởng 3 tháng trợ cấp, sau đó cứ thêm 12 tháng đóng sẽ được hưởng thêm 1 tháng, tối đa không quá 12 tháng.
Điều này đồng nghĩa, với mỗi năm tham gia, NLĐ chỉ đóng vào quỹ tương đương 12% tiền lương tháng, nhưng có thể nhận về trợ cấp bằng 60% tiền lương tháng — tức là gấp 5 lần mức đóng. Thậm chí, nếu xét theo giá trị thực tế, mức hưởng còn cao hơn, do mức lương bình quân 6 tháng cuối thường cao hơn các giai đoạn trước, trong khi mức đóng được tính trên toàn bộ thời gian tham gia.
![]() |
BẢNG SO SÁNH MỨC ĐÓNG – MỨC HƯỞNG BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP |
Ngoài trợ cấp thất nghiệp, NLĐ còn được hưởng bảo hiểm y tế miễn phí, hỗ trợ học nghề miễn phí và được tư vấn, giới thiệu việc làm bởi hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước.
Củng cố hệ thống an sinh, tăng tính thích ứng của thị trường lao động
Dù có nhiều ưu điểm, chính sách BHTN theo Luật Việc làm hiện hành vẫn còn tồn tại một khoảng trống đáng kể trong diện bao phủ.
Cụ thể, theo Điều 43 Luật Việc làm 2013, chỉ những NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ 3 tháng trở lên hoặc không xác định thời hạn mới thuộc diện bắt buộc tham gia BHTN. Trong khi đó, người lao động có hợp đồng từ 1 tháng đến dưới 3 tháng – vốn là nhóm có nguy cơ mất việc cao – lại không được tham gia BHTN, dù vẫn thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc.
Bên cạnh đó, những nhóm lao động như lao động không trọn thời gian, người quản lý doanh nghiệp có hưởng lương, hoặc người làm việc theo hợp đồng linh hoạt nhưng vẫn có quan hệ lao động thực chất, cũng không được luật hiện hành điều chỉnh đầy đủ.
Đây là những “điểm mù” chính sách cần được sửa đổi để đảm bảo tính bao trùm và công bằng trong tiếp cận an sinh xã hội.
![]() |
Điều 31 của luật mới từ ngày 1/1/2026 sửa đổi Điều 43 Luật Việc làm 2013 |
Khắc phục những bất cập nêu trên, Luật Việc làm sửa đổi năm 2025 đã được Quốc hội thông qua, với điểm nhấn quan trọng là mở rộng đáng kể đối tượng tham gia BHTN từ ngày 1/1/2026. Theo Điều 31 của luật mới, có 4 nhóm đối tượng sẽ thuộc diện bắt buộc tham gia BHTN:
Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, xác định thời hạn từ 1 tháng trở lên, bao gồm cả trường hợp hợp đồng được ký dưới các tên gọi khác nhưng vẫn thể hiện rõ quan hệ có trả lương và sự quản lý từ phía sử dụng lao động.
Người lao động làm việc không trọn thời gian, với điều kiện mức lương tháng bằng hoặc cao hơn mức lương tối thiểu làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc.
Người làm việc theo hợp đồng làm việc (áp dụng với công chức, viên chức theo các loại hợp đồng quy định).
Người quản lý có hưởng lương: bao gồm các vị trí như thành viên Hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc, kiểm soát viên, người đại diện phần vốn nhà nước hoặc doanh nghiệp... tại các công ty, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
Với việc bổ sung các nhóm đối tượng nói trên, phạm vi bao phủ BHTN sẽ tiệm cận toàn diện hơn, không chỉ dừng lại ở lực lượng lao động truyền thống mà còn mở rộng đến cả những nhóm có hình thức làm việc linh hoạt – một đặc điểm ngày càng phổ biến trong nền kinh tế số hiện nay.
![]() |
Việc mở rộng diện tham gia BHTN không chỉ có ý nghĩa hỗ trợ trực tiếp cho NLĐ mà còn góp phần quan trọng vào việc gia cố hệ thống an sinh xã hội, tạo nền tảng ổn định cho phát triển kinh tế – xã hội.
Bên cạnh đó, chính sách BHTN còn giúp nâng cao tính linh hoạt của thị trường lao động, khi NLĐ yên tâm chuyển việc, nâng cấp kỹ năng, hay thử sức ở lĩnh vực mới mà không quá lo ngại rủi ro mất thu nhập.
Từ góc độ dài hạn, việc đảm bảo an sinh khi thất nghiệp còn góp phần duy trì sức mua xã hội, ổn định đời sống dân cư và giảm áp lực lên các chương trình hỗ trợ khẩn cấp của Nhà nước trong bối cảnh biến động.