Thứ năm 18/12/2025 23:44
Hotline: 024.355.63.010
Email: banbientap.dnhn@gmail.com
Thời cuộc

Khủng hoảng thất nghiệp

12/10/2020 00:00
(TBKTSG) - Thứ Ba tuần trước (7-7-2020), Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) công bố báo cáo Triển vọng việc làm 2020, nhấn mạnh cuộc khủng hoảng về sức khỏe do dịch Covid-19 đã tạo ra một cuộc khủng hoảng việc làm.

Ngành dệt may - một trong những ngành hiện đang có tỷ lệ người lao động bị mất việc cao. Ảnh: THÀNH HOA

Những hệ lụy nguy hiểm từ thất nghiệp

Khủng hoảng việc làm hiện nay bỏ xa các đợt khủng hoảng khác kể từ cuộc đại suy thoái năm 1930. Đến cuối tháng 5, tỷ lệ thất nghiệp của OECD là 8,4% với 54,4 triệu lao động. Theo ước tính của tổ chức này, tỷ lệ thất nghiệp của các nước thành viên đến cuối năm nay vào khoảng 9,4%, và dự kiến không thể phục hồi trước năm 2021 trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự báo giảm 6% năm nay. Ở nhiều nước, số giờ làm việc giảm gấp 10 lần so với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.

Nhưng mức độ bị ảnh hưởng của các nhóm lao động trong cùng một nền kinh tế là khác nhau. Bị ảnh hưởng nặng nề nhất là nhóm lao động trẻ, phụ nữ, những nhóm công việc được trả lương thấp, công việc tạm thời hay tự kinh doanh. Trong giai đoạn giãn cách xã hội, những lao động có thu nhập thấp có rủi ro bị mất việc làm gấp 2 lần so với đồng nghiệp có thu nhập cao. Ngoài ra, nhóm lao động có thu nhập cao thì có nhiều khả năng được làm việc tại nhà hơn là lao động có thu nhập thấp vì tính chất công việc của họ có thể làm được qua Internet.

Đã có rất nhiều nghiên cứu về hệ lụy của thất nghiệp, trong đó có hai hệ lụy chính là đói nghèo và sức khỏe. Rơi vào ngưỡng đói nghèo có thể dễ hình dung đối với những lao động có thu nhập thấp, sẽ nghiêm trọng hơn ở những nơi chế độ bảo hiểm thất nghiệp và an sinh xã hội chưa đủ đảm bảo. Khi bị rơi vào tình trạng thất nghiệp, các chế độ liên quan đến bảo hiểm y tế cũng bị giảm hoặc cắt, do đó người lao động phải chi trả thêm từ tiền túi của mình nếu không may bị bệnh tật.

Tuy vậy, khả năng rơi vào diện nghèo cũng dễ xảy ra đối với một số lao động có thu nhập cao khi bị thất nghiệp. Đó là vì những người này không có tích lũy dự phòng rủi ro, chi tiêu chủ yếu dựa vào tín dụng trên mức lương hiện tại của mình. Có những người vay mua nhà vượt quá nhu cầu và khả năng tài chính của mình, thường xuyên thay đổi xe, có các chuyến du lịch xa xỉ, dùng nhiều đồ hiệu trong khi các khoản chi này đều dựa vào tín dụng. Khi thất nghiệp ập đến, thu nhập giảm mạnh đột ngột nhưng các khoản nợ định kỳ vẫn phải trả, sẽ dẫn đến túng quẫn như một số trường hợp làm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ở cuộc khủng hoảng năm 2008.

Hệ lụy thứ hai không kém phần quan trọng là sức khỏe, cả về thể chất lẫn tinh thần. Tâm lý chung của người bị thất nghiệp là chán nản, căng thẳng, có thể chuyển sang trầm cảm. Những người này cũng có xu hướng gia tăng sử dụng các chất gây nghiện như thuốc lá, thức uống có cồn, hay thậm chí ma túy. Ngay cả ở những nước phát triển có hệ thống bảo hiểm thất nghiệp tốt, các chế độ an sinh xã hội hỗ trợ cho người lao động thì sang chấn tâm lý của người bị thất nghiệp là rất lớn vì cảm thấy mình là người thất bại, trở thành gánh nặng của xã hội.

Vai trò của bảo hiểm

Trong số các nước có hệ thống bảo hiểm thất nghiệp và an sinh xã hội tốt nhất, có thể kể đến nước Pháp. Ở đây, người lao động bị thất nghiệp được hưởng trợ cấp trung bình 79% đối với thu nhập thấp và 64% đối với thu nhập cao, trong khoảng thời gian 24-36 tháng. Với mức trợ cấp này, người lao động vẫn có thể đảm bảo các nhu cầu chi tiêu tối thiểu, nhưng ảnh hưởng về sức khỏe và tâm lý là không thể tránh được.

Ảnh hưởng của dịch Covid-19 đến thất nghiệp ở Việt Nam có lẽ còn nghiêm trọng hơn. Theo thống kê sáu tháng đầu năm 2020, số lao động bị ảnh hưởng lên đến 30 triệu người

Để giảm thiểu hệ lụy của thất nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp là một công cụ hữu hiệu mà hầu hết các chính phủ đều triển khai để bảo vệ người lao động. Nhưng cách vận hành ở mỗi nước là khác nhau, thậm chí khác nhau giữa các bang trong cùng một nước có thể chế liên bang.

Sự khác nhau về quyền lợi của người lao động thất nghiệp được xác định ở ba yếu tố: tỷ lệ được hưởng so với mức thu nhập trước đó, thời gian được hưởng, và các hỗ trợ tìm việc làm mới. Các nước thường quy định tỷ lệ hưởng ở mức 60-80%, có nước quy định thu nhập cao thì tỷ lệ hưởng thấp hơn để thực hiện chức năng điều tiết. Thời gian được hưởng có thể dao động từ trung bình sáu tháng như ở Mỹ (tùy theo bang), lên đến 24 tháng như ở Pháp, có nước cho gia hạn thêm một thời gian nhưng người lao động phải đáp ứng những điều kiện nhất định. Cuối cùng là hỗ trợ tìm việc làm mới, cũng với các chính sách và cách thức tổ chức khác nhau.

Ở Việt Nam thì sao?

Ảnh hưởng của dịch Covid-19 đến thất nghiệp ở Việt Nam có lẽ còn nghiêm trọng hơn. Theo thống kê sáu tháng đầu năm 2020, số lao động bị ảnh hưởng lên đến 30 triệu người, phần lớn bị giảm thu nhập do giảm giờ làm hoặc bị thất nghiệp. Theo quy định hiện nay, người lao động ở Việt Nam được hưởng tối đa 12 tháng trợ cấp thất nghiệp, với mức hưởng 60% bình quân lương sáu tháng trước đó, và tối đa là 5 lần lương tối thiểu vùng.

Nhưng thu nhập thực tế của rất nhiều người lao động lại không giống như bảng lương để tính bảo hiểm xã hội, vì có nhiều khoản hỗ trợ hay thu nhập tăng thêm được hạch toán để né không tính vào thu nhập đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Lúc này, phần thiệt của người lao động mới thấy được rõ.

Một vấn đề khác của người lao động Việt Nam là tỷ lệ lao động phi chính thức còn rất cao, đến cuối năm 2019 là 54,6% và hầu hết các lao động này không có bảo hiểm xã hội bắt buộc, nghĩa là không có bảo hiểm thất nghiệp.

Như vậy có thể thấy, một phần lớn lao động thất nghiệp do dịch Covid-19 ở Việt Nam sẽ không có trợ cấp thất nghiệp, số có được trợ cấp thì trợ cấp nhận được cũng chênh lệch khá nhiều so với thu nhập thực tế trước đó. Tình cảnh sẽ càng khó khăn hơn đối với các lao động di cư, vì các chi phí nhà ở, ăn uống dù ở mức tối thiểu nhất cũng là một gánh nặng lớn đối với họ.

Mặc dù sự hỗ trợ của gia đình, người thân, bạn bè là một truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam trong lúc khó khăn, nhưng người lao động cần chú ý hơn đến việc tích cốc phòng cơ, trích dành một phần thu nhập khi đang có việc làm vào một quỹ dự phòng, thường cần đủ cho sáu tháng đến một năm. Quan trọng hơn, cần biết và đấu tranh cho quyền lợi của mình trong việc thực hiện hợp đồng lao động, đưa hết các thu nhập vào chính thức để tính đóng bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, cũng cần luôn trau dồi, học thêm những kiến thức cũng như kỹ năng mới, để có khi cần thiết cho việc chuyển đổi sang công việc khác

TS. Võ Đình Trí

Tin bài khác
Thủ tướng Phạm Minh Chính làm Trưởng Ban Chỉ đạo của Chính phủ về quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô

Thủ tướng Phạm Minh Chính làm Trưởng Ban Chỉ đạo của Chính phủ về quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Quyết định số 2748/QĐ-TTg thành lập Ban Chỉ đạo của Chính phủ về quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô, nhằm tăng cường phối hợp liên ngành, kịp thời xử lý các vấn đề quan trọng trong điều hành kinh tế trên phạm vi cả nước.
Xây dựng thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch: Thách thức và cơ hội cho doanh nghiệp

Xây dựng thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch: Thách thức và cơ hội cho doanh nghiệp

Ngày 18/12, tại Hà Nội, dưới sự chỉ đạo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức Diễn đàn “Xây dựng thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch: Thách thức và cơ hội cho doanh nghiệp”.
Tuyến Metro số 1 (Bến Thành – Suối Tiên) - Một năm vận chuyển gần 19 triệu lượt hành khách

Tuyến Metro số 1 (Bến Thành – Suối Tiên) - Một năm vận chuyển gần 19 triệu lượt hành khách

Sau một năm chính thức đưa vào khai thác thương mại, tuyến metro số 1 (Bến Thành – Suối Tiên) – tuyến đường sắt đô thị đầu tiên của TP.HCM đã từng bước khẳng định vai trò là xương sống của hệ thống vận tải hành khách công cộng khối lượng lớn tại TP.HCM, đồng thời tạo nền tảng quan trọng để Thành phố đẩy nhanh triển khai tuyến metro số 2 và chuẩn bị đầu tư các tuyến đường sắt đô thị tiếp theo.
Siết chặt quản lý ô tô nhập khẩu dạng quà biếu, quà tặng

Siết chặt quản lý ô tô nhập khẩu dạng quà biếu, quà tặng

Bộ Công Thương kiến nghị tăng cường quản lý ô tô nhập khẩu dưới dạng quà biếu, tặng và tài sản di chuyển do phát hiện hàng loạt dấu hiệu trục lợi, lách luật, gây ảnh hưởng đến ngành công nghiệp ô tô trong nước.
Nông nghiệp tăng trưởng vượt mục tiêu, xuất khẩu duy trì đà kỷ lục

Nông nghiệp tăng trưởng vượt mục tiêu, xuất khẩu duy trì đà kỷ lục

GDP ngành nông nghiệp năm 2025 ước tăng khoảng 4%, vượt xa mục tiêu 2,5–3%/năm; giai đoạn 2021–2025, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tăng bình quân 10,5%/năm. Kết quả này phản ánh hiệu quả của quá trình tái cơ cấu ngành theo hướng kinh tế nông nghiệp, xanh và bền vững.
Mở hành lang pháp lý, thúc đẩy ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam bứt phá

Mở hành lang pháp lý, thúc đẩy ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam bứt phá

Luật Công nghiệp Công nghệ số 2025 được kỳ vọng trở thành “cú hích” thể chế quan trọng, tạo hành lang pháp lý cho công nghiệp bán dẫn và cơ chế ưu đãi vượt trội nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn về hạ tầng, nhân lực và chuỗi giá trị, qua đó đưa chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam từ tầm nhìn sang hành động cụ thể.
Giữ vai trò xuất khẩu chủ lực, ngành dệt may đối mặt bài toán bền vững

Giữ vai trò xuất khẩu chủ lực, ngành dệt may đối mặt bài toán bền vững

Ngành dệt may Việt Nam tận dụng FTA để mở rộng chuỗi cung ứng, nhưng dư địa tăng trưởng thu hẹp, buộc phải chuyển sang phát triển chiều sâu và bền vững.
Kinh tế Việt Nam 2025: Thách thức chồng chất nhưng vẫn duy trì đà tăng trưởng ấn tượng

Kinh tế Việt Nam 2025: Thách thức chồng chất nhưng vẫn duy trì đà tăng trưởng ấn tượng

“Tăng trưởng kinh tế được thúc đẩy mạnh mẽ, dự kiến cả năm 2025 đạt trên 8%, nằm trong số các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới” - ông Nguyễn Thanh Nghị - Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương thông tin.
Thủ tướng Chính phủ: Tạo xung lực mới cho tăng trưởng nhanh, bền vững giai đoạn 2026 - 2030

Thủ tướng Chính phủ: Tạo xung lực mới cho tăng trưởng nhanh, bền vững giai đoạn 2026 - 2030

Chủ trì Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh yêu cầu tạo xung lực phát triển mới cho nền kinh tế, hướng tới tăng trưởng cao gắn với chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và mục tiêu tăng trưởng “hai con số” trong giai đoạn 2026–2030.
Cảnh báo chiến lược sản xuất và thương mại lúa gạo khi Việt Nam chi 1,5 tỉ USD nhập gạo

Cảnh báo chiến lược sản xuất và thương mại lúa gạo khi Việt Nam chi 1,5 tỉ USD nhập gạo

Việc Việt Nam chi tới 1,5 tỉ USD để nhập khẩu gạo chỉ trong 11 tháng đầu năm 2025 - mức cao nhất từ trước tới nay - đặt ra một nghịch lý và là lúc chúng ta phải tính đến một chiến lược khác cho hạt gạo nội địa. Đây không còn là câu chuyện cân đối cung cầu đơn thuần, mà là lời cảnh báo về chiến lược sản xuất, xuất khẩu và định vị giá trị gạo Việt trên thị trường toàn cầu.
Thủ tướng Chính phủ: Quy hoạch Hà Nội phải có tầm nhìn trăm năm, phát huy tối đa lợi thế Thủ đô

Thủ tướng Chính phủ: Quy hoạch Hà Nội phải có tầm nhìn trăm năm, phát huy tối đa lợi thế Thủ đô

Thủ tướng Chính phủ gợi mở nhiều định hướng quan trọng trong quy hoạch không gian phát triển, trong đó nhấn mạnh việc khai thác hiệu quả cả không gian ngầm, không gian mặt đất và không gian vũ trụ. Cùng với đó là định hướng phát triển “làng trong phố, phố trong làng”, gắn với phát triển xanh và phát triển số – những xu thế đang phổ biến trên thế giới.
Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình làm việc với Hải Phòng: Khơi thông “luồng xanh” thể chế, tạo động lực tăng trưởng mới

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hòa Bình làm việc với Hải Phòng: Khơi thông “luồng xanh” thể chế, tạo động lực tăng trưởng mới

Sáng 15/12, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình cùng Đoàn công tác của Chính phủ đã làm việc với thành phố Hải Phòng về tình hình phát triển kinh tế – xã hội, trọng tâm là sản xuất kinh doanh, đầu tư công, xuất nhập khẩu, xây dựng hạ tầng, nhà ở xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia và việc triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Buổi làm việc có ý nghĩa quan trọng, góp phần tháo gỡ các “điểm nghẽn”, mở ra không gian và động lực phát triển mới cho thành phố trong giai đoạn tới.
TP. Hồ Chí Minh tìm “đòn bẩy” FDI chất lượng cao cho hành trình trở thành siêu đô thị

TP. Hồ Chí Minh tìm “đòn bẩy” FDI chất lượng cao cho hành trình trở thành siêu đô thị

Trong bối cảnh nguồn lực trong nước còn hạn chế, TP. Hồ Chí Minh đang xác định thu hút dòng vốn FDI chất lượng cao là động lực then chốt để hiện thực hóa mục tiêu trở thành siêu đô thị thông minh và trung tâm tài chính tầm khu vực, với trọng tâm là công nghệ cao, hạ tầng xanh và phát triển bền vững.
Lâm Đồng phê duyệt đầu tư gần 3.800 tỷ đồng làm sân bay Phan Thiết

Lâm Đồng phê duyệt đầu tư gần 3.800 tỷ đồng làm sân bay Phan Thiết

Ngày 15/12/2025, UBND tỉnh Lâm Đồng chính thức ban hành quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư dự án Cảng hàng không Phan Thiết - Hạng mục hàng không dân dụng tại phường Mũi Né. Dự án có tổng vốn đầu tư dự kiến gần 3.800 tỷ đồng, được thực hiện qua hình thức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.
Cần một cơ chế phân vùng lương linh hoạt, phù hợp thực tế địa phương

Cần một cơ chế phân vùng lương linh hoạt, phù hợp thực tế địa phương

Cơ quan chức năng cần rà soát, điều chỉnh phân vùng đồng bộ trên phạm vi cả nước, dựa trên đánh giá lại chi phí sinh hoạt, điều kiện lao động, thực tế địa bàn sau sáp nhập cũng như không làm tăng chi phí cho doanh nghiệp, theo bà Hồ Thị Kim Ngân - Phó trưởng ban Quan hệ Lao động Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam.