Thứ hai 03/11/2025 16:34
Hotline: 024.355.63.010
Thời cuộc

Khủng hoảng thất nghiệp

12/10/2020 00:00
(TBKTSG) - Thứ Ba tuần trước (7-7-2020), Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) công bố báo cáo Triển vọng việc làm 2020, nhấn mạnh cuộc khủng hoảng về sức khỏe do dịch Covid-19 đã tạo ra một cuộc khủng hoảng việc làm.

Ngành dệt may - một trong những ngành hiện đang có tỷ lệ người lao động bị mất việc cao. Ảnh: THÀNH HOA

Những hệ lụy nguy hiểm từ thất nghiệp

Khủng hoảng việc làm hiện nay bỏ xa các đợt khủng hoảng khác kể từ cuộc đại suy thoái năm 1930. Đến cuối tháng 5, tỷ lệ thất nghiệp của OECD là 8,4% với 54,4 triệu lao động. Theo ước tính của tổ chức này, tỷ lệ thất nghiệp của các nước thành viên đến cuối năm nay vào khoảng 9,4%, và dự kiến không thể phục hồi trước năm 2021 trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự báo giảm 6% năm nay. Ở nhiều nước, số giờ làm việc giảm gấp 10 lần so với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.

Nhưng mức độ bị ảnh hưởng của các nhóm lao động trong cùng một nền kinh tế là khác nhau. Bị ảnh hưởng nặng nề nhất là nhóm lao động trẻ, phụ nữ, những nhóm công việc được trả lương thấp, công việc tạm thời hay tự kinh doanh. Trong giai đoạn giãn cách xã hội, những lao động có thu nhập thấp có rủi ro bị mất việc làm gấp 2 lần so với đồng nghiệp có thu nhập cao. Ngoài ra, nhóm lao động có thu nhập cao thì có nhiều khả năng được làm việc tại nhà hơn là lao động có thu nhập thấp vì tính chất công việc của họ có thể làm được qua Internet.

Đã có rất nhiều nghiên cứu về hệ lụy của thất nghiệp, trong đó có hai hệ lụy chính là đói nghèo và sức khỏe. Rơi vào ngưỡng đói nghèo có thể dễ hình dung đối với những lao động có thu nhập thấp, sẽ nghiêm trọng hơn ở những nơi chế độ bảo hiểm thất nghiệp và an sinh xã hội chưa đủ đảm bảo. Khi bị rơi vào tình trạng thất nghiệp, các chế độ liên quan đến bảo hiểm y tế cũng bị giảm hoặc cắt, do đó người lao động phải chi trả thêm từ tiền túi của mình nếu không may bị bệnh tật.

Tuy vậy, khả năng rơi vào diện nghèo cũng dễ xảy ra đối với một số lao động có thu nhập cao khi bị thất nghiệp. Đó là vì những người này không có tích lũy dự phòng rủi ro, chi tiêu chủ yếu dựa vào tín dụng trên mức lương hiện tại của mình. Có những người vay mua nhà vượt quá nhu cầu và khả năng tài chính của mình, thường xuyên thay đổi xe, có các chuyến du lịch xa xỉ, dùng nhiều đồ hiệu trong khi các khoản chi này đều dựa vào tín dụng. Khi thất nghiệp ập đến, thu nhập giảm mạnh đột ngột nhưng các khoản nợ định kỳ vẫn phải trả, sẽ dẫn đến túng quẫn như một số trường hợp làm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ở cuộc khủng hoảng năm 2008.

Hệ lụy thứ hai không kém phần quan trọng là sức khỏe, cả về thể chất lẫn tinh thần. Tâm lý chung của người bị thất nghiệp là chán nản, căng thẳng, có thể chuyển sang trầm cảm. Những người này cũng có xu hướng gia tăng sử dụng các chất gây nghiện như thuốc lá, thức uống có cồn, hay thậm chí ma túy. Ngay cả ở những nước phát triển có hệ thống bảo hiểm thất nghiệp tốt, các chế độ an sinh xã hội hỗ trợ cho người lao động thì sang chấn tâm lý của người bị thất nghiệp là rất lớn vì cảm thấy mình là người thất bại, trở thành gánh nặng của xã hội.

Vai trò của bảo hiểm

Trong số các nước có hệ thống bảo hiểm thất nghiệp và an sinh xã hội tốt nhất, có thể kể đến nước Pháp. Ở đây, người lao động bị thất nghiệp được hưởng trợ cấp trung bình 79% đối với thu nhập thấp và 64% đối với thu nhập cao, trong khoảng thời gian 24-36 tháng. Với mức trợ cấp này, người lao động vẫn có thể đảm bảo các nhu cầu chi tiêu tối thiểu, nhưng ảnh hưởng về sức khỏe và tâm lý là không thể tránh được.

Ảnh hưởng của dịch Covid-19 đến thất nghiệp ở Việt Nam có lẽ còn nghiêm trọng hơn. Theo thống kê sáu tháng đầu năm 2020, số lao động bị ảnh hưởng lên đến 30 triệu người

Để giảm thiểu hệ lụy của thất nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp là một công cụ hữu hiệu mà hầu hết các chính phủ đều triển khai để bảo vệ người lao động. Nhưng cách vận hành ở mỗi nước là khác nhau, thậm chí khác nhau giữa các bang trong cùng một nước có thể chế liên bang.

Sự khác nhau về quyền lợi của người lao động thất nghiệp được xác định ở ba yếu tố: tỷ lệ được hưởng so với mức thu nhập trước đó, thời gian được hưởng, và các hỗ trợ tìm việc làm mới. Các nước thường quy định tỷ lệ hưởng ở mức 60-80%, có nước quy định thu nhập cao thì tỷ lệ hưởng thấp hơn để thực hiện chức năng điều tiết. Thời gian được hưởng có thể dao động từ trung bình sáu tháng như ở Mỹ (tùy theo bang), lên đến 24 tháng như ở Pháp, có nước cho gia hạn thêm một thời gian nhưng người lao động phải đáp ứng những điều kiện nhất định. Cuối cùng là hỗ trợ tìm việc làm mới, cũng với các chính sách và cách thức tổ chức khác nhau.

Ở Việt Nam thì sao?

Ảnh hưởng của dịch Covid-19 đến thất nghiệp ở Việt Nam có lẽ còn nghiêm trọng hơn. Theo thống kê sáu tháng đầu năm 2020, số lao động bị ảnh hưởng lên đến 30 triệu người, phần lớn bị giảm thu nhập do giảm giờ làm hoặc bị thất nghiệp. Theo quy định hiện nay, người lao động ở Việt Nam được hưởng tối đa 12 tháng trợ cấp thất nghiệp, với mức hưởng 60% bình quân lương sáu tháng trước đó, và tối đa là 5 lần lương tối thiểu vùng.

Nhưng thu nhập thực tế của rất nhiều người lao động lại không giống như bảng lương để tính bảo hiểm xã hội, vì có nhiều khoản hỗ trợ hay thu nhập tăng thêm được hạch toán để né không tính vào thu nhập đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Lúc này, phần thiệt của người lao động mới thấy được rõ.

Một vấn đề khác của người lao động Việt Nam là tỷ lệ lao động phi chính thức còn rất cao, đến cuối năm 2019 là 54,6% và hầu hết các lao động này không có bảo hiểm xã hội bắt buộc, nghĩa là không có bảo hiểm thất nghiệp.

Như vậy có thể thấy, một phần lớn lao động thất nghiệp do dịch Covid-19 ở Việt Nam sẽ không có trợ cấp thất nghiệp, số có được trợ cấp thì trợ cấp nhận được cũng chênh lệch khá nhiều so với thu nhập thực tế trước đó. Tình cảnh sẽ càng khó khăn hơn đối với các lao động di cư, vì các chi phí nhà ở, ăn uống dù ở mức tối thiểu nhất cũng là một gánh nặng lớn đối với họ.

Mặc dù sự hỗ trợ của gia đình, người thân, bạn bè là một truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam trong lúc khó khăn, nhưng người lao động cần chú ý hơn đến việc tích cốc phòng cơ, trích dành một phần thu nhập khi đang có việc làm vào một quỹ dự phòng, thường cần đủ cho sáu tháng đến một năm. Quan trọng hơn, cần biết và đấu tranh cho quyền lợi của mình trong việc thực hiện hợp đồng lao động, đưa hết các thu nhập vào chính thức để tính đóng bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, cũng cần luôn trau dồi, học thêm những kiến thức cũng như kỹ năng mới, để có khi cần thiết cho việc chuyển đổi sang công việc khác

TS. Võ Đình Trí

Tin bài khác
Sửa Luật Quản lý nợ công: Rút ngắn thủ tục, mở rộng quyền tiếp cận vốn cho doanh nghiệp

Sửa Luật Quản lý nợ công: Rút ngắn thủ tục, mở rộng quyền tiếp cận vốn cho doanh nghiệp

Dự án Luật Quản lý nợ công sửa đổi nhiều nội dung liên quan để đẩy mạnh phân cấp, phần quyền gắn kiểm tra giám sát trong quản lý nợ công.
Sửa đổi Luật Quản lý nợ công: Củng cố niềm tin nhà đầu tư

Sửa đổi Luật Quản lý nợ công: Củng cố niềm tin nhà đầu tư

Sáng 3/11, tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV, cho ý kiến về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý nợ công, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh yêu cầu rà soát kỹ lưỡng, đảm bảo vừa tạo thuận lợi trong công tác quản lý nợ, vừa củng cố nền tảng tài chính quốc gia và tăng niềm tin của nhà đầu tư đối với môi trường kinh tế Việt Nam.
Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ở Hải Phòng được miễn thuế 5 năm – cú hích lớn cho hệ sinh thái đổi mới

Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ở Hải Phòng được miễn thuế 5 năm – cú hích lớn cho hệ sinh thái đổi mới

Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng khóa XVI vừa thông qua tại Kỳ họp thứ 30 và Chủ tịch HĐND thành phố Lê Văn Hiệu đã ký ban hành Nghị quyết quy định tiêu chí, điều kiện, trình tự, thủ tục ưu đãi thuế đối với các hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới sáng tạo, vi mạch bán dẫn và trí tuệ nhân tạo theo quy định tại Nghị quyết số 226/2025/QH15 của Quốc hội.
Nếu Mỹ - Trung Quốc đạt được thoả thuận thì doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi gì?

Nếu Mỹ - Trung Quốc đạt được thoả thuận thì doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi gì?

Giữa lúc cả thế giới dõi theo từng bước dịch chuyển trong mối quan hệ Mỹ – Trung, tín hiệu về một thỏa thuận chiến lược giảm căng thẳng giữa hai siêu cường quốc đang thắp lên hy vọng mới cho kinh tế toàn cầu. Nhưng với Việt Nam – quốc gia nằm giữa hai trung tâm sản xuất và tiêu dùng lớn nhất hành tinh, câu hỏi lớn hơn là: liệu “cái bắt tay” ấy sẽ mang cơ hội hay tạo sức ép mới cho doanh nghiệp Việt Nam sắp tới đây?
Hợp lực vươn xa: Hải Phòng khơi dòng kết nối giữa FDI và doanh nghiệp nội địa

Hợp lực vươn xa: Hải Phòng khơi dòng kết nối giữa FDI và doanh nghiệp nội địa

Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng vừa tổ chức Hội nghị kết nối doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp phụ trợ trong nước năm 2025, nhằm mở rộng chuỗi cung ứng nội địa, tăng cường hợp tác đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh cho cộng đồng doanh nghiệp thành phố.
Chính phủ thông qua nội dung dự án Luật Thương mại điện tử

Chính phủ thông qua nội dung dự án Luật Thương mại điện tử

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 352/NQ-CP, thống nhất thông qua nội dung dự án Luật Thương mại điện tử (TMĐT) – văn bản pháp lý được kỳ vọng sẽ tạo hành lang minh bạch, đồng bộ và hiện đại cho nền kinh tế số đang phát triển mạnh mẽ của Việt Nam.
Siết chặt hành vi dùng AI tạo tin giả, mạo danh: Quốc hội bàn sâu Luật An ninh mạng sửa đổi

Siết chặt hành vi dùng AI tạo tin giả, mạo danh: Quốc hội bàn sâu Luật An ninh mạng sửa đổi

Ngày 31/10, trong khuôn khổ chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Công an – Đại tướng Lương Tam Quang, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, trình bày Tờ trình về Dự án Luật An ninh mạng (sửa đổi).
Phó Thủ tướng Lê Thành Long làm rõ kế hoạch thành lập sàn giao dịch vàng và quản lý thị trường bất động sản

Phó Thủ tướng Lê Thành Long làm rõ kế hoạch thành lập sàn giao dịch vàng và quản lý thị trường bất động sản

Tại phiên thảo luận ngày 30/10, Phó Thủ tướng Lê Thành Long đã thay mặt Chính phủ tham gia giải trình, làm rõ một số vấn đề được đại biểu Quốc hội và cử tri quan tâm, trong đó nổi bật là chủ trương thành lập sàn giao dịch vàng quốc gia, định hướng quản lý thị trường bất động sản.
Khánh Hòa: Quyết tâm đạt 11% GRDP trong 3 tháng cuối năm 2025

Khánh Hòa: Quyết tâm đạt 11% GRDP trong 3 tháng cuối năm 2025

Khánh Hòa đang bước vào "giai đoạn nước rút" với tham vọng là đưa tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) quý IV/2025 lên mức 11% để kéo tăng trưởng cả năm đạt 8,1%.
Chống “vàng hóa”, VAFI kiến nghị đánh thuế VAT 10% với vàng

Chống “vàng hóa”, VAFI kiến nghị đánh thuế VAT 10% với vàng

Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) vừa có văn bản về chính sách thuế đối với kinh doanh vàng miếng và vàng trang sức. Theo đó, đơn vị này đề xuất áp thuế GTGT 10% trên hóa đơn bán vàng.
"Thợ số" không thể bị lãng quên để Việt Nam đạt được mục tiêu chiến lược

"Thợ số" không thể bị lãng quên để Việt Nam đạt được mục tiêu chiến lược

Việt Nam thiếu trầm trọng kỹ thuật viên vận hành công nghệ. Nếu không giữ chân được "thợ số", mục tiêu trung tâm AI sẽ khó thành hiện thực.
Chủ động phân cấp quản lý xuất nhập khẩu, doanh nghiệp hưởng lợi

Chủ động phân cấp quản lý xuất nhập khẩu, doanh nghiệp hưởng lợi

Thực hiện Nghị định 146/2025/NĐ-CP của Chính phủ về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại, Hà Nội đã nhanh chóng triển khai hàng loạt giải pháp cụ thể, giúp doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuận lợi hơn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của Thủ đô.
Đại biểu Quốc hội kiến nghị rà soát, điều chỉnh chỉ tiêu tài chính để bảo đảm mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2026

Đại biểu Quốc hội kiến nghị rà soát, điều chỉnh chỉ tiêu tài chính để bảo đảm mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2026

Đại biểu Quốc hội Trần Văn Tiến (đoàn Phú Thọ) đề nghị Chính phủ cần đánh giá lại và điều chỉnh mức tăng trưởng của một số chỉ tiêu tài chính – kinh tế vĩ mô có tác động trực tiếp đến GDP, nhằm bảo đảm tính khả thi cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2026.
Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh: "Thành công FDI là thước đo sức hút đầu tư của Thành phố"

Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh: "Thành công FDI là thước đo sức hút đầu tư của Thành phố"

“TP. Hồ Chí Minh luôn coi doanh nghiệp là trung tâm, là động lực và là nguồn lực cho sự phát triển. Thành công của doanh nghiệp FDI cũng chính là thước đo năng lực điều hành và sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Thành phố.”
TP. Hồ Chí Minh: 168 phường, xã tập huấn công tác quản lý nhà nước về công nghệ, chuyển đổi số

TP. Hồ Chí Minh: 168 phường, xã tập huấn công tác quản lý nhà nước về công nghệ, chuyển đổi số

Chương trình hướng dẫn chi tiết thủ tục hành chính mới, như: quy trình thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, các vấn đề sở hữu trí tuệ và quản lý công nghệ cao, cũng như nghiệp vụ quản lý nhà nước về dự án đầu tư công…