Chủ nhật 13/07/2025 06:24
Hotline: 024.355.63.010
Kinh doanh

Xếp hạng hiệu suất làm việc có thể làm tổn thương phụ nữ như thế nào ?

15/12/2021 14:30
Nhiều nỗ lực của doanh nghiệp thời đại mới đã được dành cho việc cải thiện bình đẳng giới trong tuyển dụng. Thật không may rằng mặc dù những sáng kiến này có thể giúp các tổ chức có được nhiều ứng viên nữ hơn nhưng chúng thường bị lãng quên khi đề cậ
Xếp hạng hiệu suất làm việc có thể làm tổn thương phụ nữ về cả khía cạnh vật chất lẫn tinh thần.
Xếp hạng hiệu suất làm việc có thể làm tổn thương phụ nữ về cả khía cạnh vật chất lẫn tinh thần. (Ảnh: The Japan Times)

Cụ thể, nhiều công ty sử dụng một số hình thức cơ chế xếp hạng để đánh giá hiệu suất của nhân viên so với nhau, sau đó xác định sự thăng tiến cho phù hợp. Nghiên cứu trước đây đã khám phá nhiều ưu và nhược điểm khác nhau của các hệ thống này, nhưng trong một lĩnh vực thì vẫn đề này vẫn chưa được khám phá nhiều là tác động của chúng đối với đại diện giới.

Bằng cách nào mà một hệ thống đánh giá có vẻ khách quan, không thiên vị lại có thể thúc đẩy sự bất công bằng? Một hệ thống quản lý hiệu suất trong đó các nhân viên được xếp hạng với nhau tạo ra một loại môi trường cạnh tranh cụ thể. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng nam giới và phụ nữ có thể phản ứng khác nhau khi đối mặt với sự cạnh tranh nhưng những nghiên cứu này chủ yếu xem xét các môi trường mà mọi người cạnh tranh để giành giật nguồn lực vật chất hoặc tài chính khan hiếm. Xếp hạng hiệu suất không nhất thiết liên quan đến cạnh tranh về các nguồn lực hữu hình nhưng chúng tạo ra sự cạnh tranh cho một loại tài nguyên khác: địa vị xã hội.

Để hiểu rõ hơn xếp hạng địa vị xã hội ảnh hưởng khác nhau đến nam giới và phụ nữ như thế nào (và kết quả là các hệ thống đánh giá này có thể cản trở nỗ lực của các tổ chức trong việc giữ chân phụ nữ như thế nào), Klarita Gërxhani - 1 giáo sư xã hội học kinh tế tại Viện Đại học Châu Âu, Florence, Ý – và các cộng sự đã tiến hành một loạt các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm với các sinh viên ở Tây Ban Nha. Sau đó giáo sư này đã nhân rộng quy ra thí nghiệm ra Ý và Hà Lan. Những người tham gia được yêu cầu hoàn thành các bài toán đơn giản trong đó họ tìm kiếm các con số và cộng chúng lại và họ được thông báo rằng họ sẽ nhận được một Euro cho mỗi bài toán mà họ hoàn thành chính xác. Điều này có nghĩa là tất cả họ đều được khuyến khích như nhau để giải quyết các vấn đề và do đó không phải cạnh tranh về các nguồn tài chính. Sau đó, nhóm nghiên cứu đã nói với một nhóm người tham gia rằng một người ngang hàng sẽ xếp hạng họ với nhau dựa trên hiệu suất của họ trong khi những người tham gia trong nhóm khác không được nói bất cứ điều gì. Điều này cho phép giáo sư Klarita và cộng sự của bà tách biệt tác động của xếp hạng địa vị xã hội.

Nói rõ hơn về thí nghiệm thì điều duy nhất thay đổi giữa hai nhóm là liệu họ có được thông báo trước rằng họ sẽ được xếp hạng hay không - cả hai đều được khuyến khích tài chính theo cách giống hệt nhau. Tuy nhiên, giáo sư và cộng sự nhận thấy rằng chỉ cần dự đoán rằng họ sẽ được xếp hạng đã tác động đáng kể đến hiệu suất của những người tham gia và tác động đó là khác nhau đáng kể đối với nam giới và phụ nữ. Khi những người tham gia không được thông báo rằng họ sẽ được xếp hạng, nam giới và phụ nữ thực hiện ở cùng một cấp độ về cơ bản. Nhưng khi họ được thông báo một cách rõ ràng rằng họ sẽ được xếp hạng, nam giới thể hiện tốt hơn những người không được thông báo bất cứ điều gì, trong khi nữ giới lại thể hiện kém hơn rất nhiều. Điều này dẫn đến sự khác biệt đáng kể về hiệu suất thực: Khi họ biết mình sẽ được xếp hạng, những người tham gia là nam giới đã giải quyết được nhiều vấn đề hơn gần 40% so với những người tham gia là nữ giới.

Điều gì có thể thúc đẩy sự chênh lệch giới tính đáng kể này? Giáo sư Klarita và cộng sự đã tiến hành một loạt các thử nghiệm khác được thiết kế để khám phá câu hỏi này và mặc dù phân tích của nhóm nghiên cứ vẫn đang được xem xét nhưng kết quả sơ bộ chỉ ra rằng ảnh hưởng có thể xuất phát từ những định kiến và niềm tin ăn sâu vào nam giới và phụ nữ. Cụ thể, dữ liệu của nhóm nghiên cứu cho thấy rằng niềm tin của nam giới (dù có ý thức hay trong tiềm thức) rằng họ hoạt động tốt hơn phụ nữ trong môi trường cạnh tranh khiến họ trở nên nổi trội hơn trong khi việc phụ nữ tuân thủ tiêu chuẩn giới tính khuôn mẫu là ưu tiên không làm hại người khác khiến họ hoạt động kém hơn. Điều này rất quan trọng vì nó cho thấy rằng sự khác biệt về giới do môi trường cạnh tranh gây ra không thể chỉ đơn giản là do quan niệm sai lầm rằng phụ nữ “theo 1 cách tự nhiên” kém cạnh tranh hơn nam giới. Thay vào đó, những môi trường này đã gây ra những thành kiến được xây dựng trong xã hội - đó là giả định rằng nam giới vượt trội hơn và phụ nữ nên tử tế với người khác - từ đó dẫn đến sự khác biệt về giới tính trong hiệu suất làm việc.

Điều thú vị là trong một nghiên cứu tiếp theo, giáo sư Klarita và cộng sự đã phát hiện ra rằng khi những người tham gia được cho biết rằng người đồng cấp sẽ xếp hạng họ là nam giới khi nam giới có mong muốn mạnh mẽ hơn nhiều so với phụ nữ để duy trì tình trạng cạnh tranh này trong khi khi người xếp hạng là nữ thì nam giới và phụ nữ cho xu hướng tương tự để tiếp tục sử dụng hệ thống xếp hạng. Mặc dù việc xác định nguyên nhân của sự khác biệt này nằm ngoài phạm vi nghiên cứu của giáo sư Klarita nhưng những phát hiện này cho thấy rằng sự khác biệt về giới liên quan đến hệ thống đánh giá cạnh tranh có thể liên quan đến khái niệm được ghi chép đầy đủ về “các mối đe dọa nam tính” - tức là hiện tượng nam giới cảm thấy áp lực hơn để thể hiện sự nam tính trong những tình huống đe dọa sự nam tính của họ chẳng hạn như bị người đàn ông khác đánh giá.

Tóm lại, những phát hiện này cho thấy rằng các hệ thống xếp hạng xã hội cạnh tranh có thể có ảnh hưởng lớn đến hiệu suất và quan trọng hơn, chúng có thể có những tác động rất khác nhau đối với nam giới và phụ nữ. Điều đó nói lên rằng thật khó để tưởng tượng một thế giới mà sự cạnh tranh bị loại bỏ hoàn toàn - vậy làm thế nào các tổ chức có thể gặt hái được những lợi ích từ môi trường làm việc cạnh tranh mà không khiến nhân viên nữ của họ thất bại? Sau đây là một số gợi ý quan trọng:

Xây dựng nhận thức

Đầu tiên, như với bất kỳ dạng bất công nào, bước đầu tiên để giải quyết vấn đề này là nhận ra nó đã và đang tồn tại ở đó. Các nhà quản lý phải làm việc để xây dựng nhận thức về cách các hệ thống đánh giá truyền thống và “mặc định” có thể vô tình tạo ra một môi trường khiến nam giới hoạt động tốt hơn và phụ nữ hoạt động kém hơn. Thay vì chỉ đơn giản viết rằng hiệu suất thấp hơn là sự thiếu sót của cá nhân hoặc tệ hơn là quy nó là định kiến có hại trên cơ sở giới thì các nhà quản lý nên làm việc để xác định xem hệ thống đánh giá hiệu suất của họ trên thực tế có thể góp phần vào vấn đề như thế nào. Điều này có nghĩa quan trọng là phải thừa nhận không chỉ những mặt trái tiềm ẩn của các hệ thống cạnh tranh nói chung mà còn cả những cách thức cạnh tranh để giành địa vị xã hội cụ thể có thể gây hại cho nhân viên nữ. Trong khi một hệ thống có vẻ không có tính cạnh tranh nếu nó không dẫn đến một cuộc chiến có tổng bằng không chỉ cho các nguồn lực hữu hình (chẳng hạn như ngân sách, tiền lương hoặc văn phòng ở góc) mà còn nếu chỉ riêng yếu tố địa vị xã hội cũng đủ để tạo ra sự chênh lệch đáng kể về giới.

Xem xét các hệ thống đánh giá thay thế

Tiếp theo, nếu có thể thì các tổ chức nên xem xét liệu hệ thống đánh giá của họ có phải được đại tu hay không. Vấn đề ban đầu có vẻ tốn kém và phức tạp nhưng phân tích chi phí - lợi ích về tác động của các mô hình cạnh tranh lên toàn bộ lực lượng lao động (và đặc biệt, lợi ích đối với hiệu suất của nam giới có thể vượt trội như thế nào do tác động tiêu cực đến hiệu suất và động lực của phụ nữ) có thể minh họa giá trị trong việc thử một cái gì đó mới. Nhiều công ty đã đi tiên phong trong các phương pháp tiếp cận hiệu quả để thay thế các hệ thống cũ chẳng hạn như đánh giá thăng tiến tạm thời trong đó các cá nhân được so sánh với thành tích trước đây của họ thay vì so với đồng nghiệp của họ. Ví dụ, gã khổng lồ viễn thông Trung Quốc Huawei được biết đến với việc đánh giá nhân viên về sự phát triển của họ theo thời gian thay vì tập trung vào những so sánh xã hội khiến mọi người chống lại nhau.

Thích ứng với các hệ thống hiện có

Cuối cùng nếu việc xem xét lại hoàn toàn các mô hình cạnh tranh hiện có là điều không cần bàn cãi thì vẫn có những bước mà các nhà quản lý có thể thực hiện để giảm thiểu tác hại trong những hệ thống hiện có. Đặc biệt trong nghiên cứu của giáo sư Glarita cho thấy rằng một trong những lý do chính khiến phụ nữ hoạt động kém hơn trong môi trường cạnh tranh là do họ được kỳ vọng là người chu đáo, khiến họ cố tình tránh thành công vì lo ngại rằng thành công của họ sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến người khác. Để giải quyết vấn đề này, các nhà quản lý có thể khuyến khích các đội nhóm của họ thực hiện các chính sách và các buổi đào tạo nhằm chống lại các định kiến giới chẳng hạn như giả định rằng phụ nữ nên được đồng cảm và quan tâm; trong khi nam giới nên độc lập, năng nổ, cạnh tranh và chấp nhận rủi ro.

Ngoài ra, các tổ chức nên làm việc để thiết lập các tiêu chí đánh giá khách quan và rõ ràng để các thành kiến và giả định vô thức ít có khả năng thúc đẩy đánh giá hiệu suất. Mặc dù điều này nghe có vẻ hiển nhiên nhưng những chính sách như thế này có thể mang lại hiệu quả trông thấy trong việc giảm thiểu sự mơ hồ về bình đẳng giới nơi công sở và do đó giảm thiểu sức mạnh của những định kiến có hại.

Từ Amazon đến GE (General Electric – 1 một tập đoàn đa quốc gia Mỹ hoạt động trong đa lĩnh vực bao gồm Năng lượng, Công nghệ, Cơ sở hạ tầng, vốn Tài chính và tiêu dùng công nghiệp) – 2 doanh nghiệp từ lâu đã bảo vệ hệ thống đánh giá trong đó đánh giá và thăng chức dựa trên sự so sánh giữa các nhân viên. Trong khi các mô hình này có thể hiệu quả trong một số tình huống, nhiều người đề xuất sử dụng chúng lại bỏ qua một tác dụng phụ quan trọng: Các hệ thống cạnh tranh có thể thúc đẩy sự chênh lệch đáng kể về giới và do đó ngăn các tổ chức giữ chân các thành viên nữ trong nhóm có thể có năng suất cao theo một hệ thống thay thế. Để đạt được tiến bộ thực sự trong việc giảm bất bình đẳng giới tại nơi làm việc, các doanh nghiệp phải tìm hiểu và đưa ra kết luận cho riêng mình rằng hệ thống nội bộ của chính họ có thể đóng góp như thế nào vào vấn đề và nỗ lực để cải thiện chúng.

Đức Nguyễn

Tin bài khác
“Xanh hóa”: Con đường sống còn giúp doanh nghiệp tạo sức bật trong chuỗi biến động

“Xanh hóa”: Con đường sống còn giúp doanh nghiệp tạo sức bật trong chuỗi biến động

Chia sẻ tại “Diễn đàn Logistics xanh - Sức bật trong biến động và kết nối cùng FIATA World Congress 2025”, chiều ngày 11/7, tại Hà Nội, nhiều ý kiến bày tỏ: “Xanh hóa” trở thành con đường sống còn giúp doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh và tạo sức bật trong chuỗi biến động. Phát triển logistics xanh sẽ là lợi thế cạnh tranh để doanh nghiệp Việt đi nhanh hơn, vượt lên trong chiến lược phát triển bền vững toàn cầu.
Logistics xanh: Sức bật trong biến động và kết nối cùng FIATA World Congress 2025

Logistics xanh: Sức bật trong biến động và kết nối cùng FIATA World Congress 2025

Chiều ngày 11/7, tại Hà Nội, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) tổ chức “Diễn đàn Logistics xanh - Sức bật trong biến động và kết nối cùng FIATA World Congress 2025”.
Những trường hợp nào bị từ chối đăng ký hộ kinh doanh?

Những trường hợp nào bị từ chối đăng ký hộ kinh doanh?

Theo Nghị định 168/2025/NĐ-CP, hộ kinh doanh có thể bị từ chối cấp phép nếu vi phạm hoặc không hoạt động tại địa chỉ đăng ký.
Rút ngắn đăng ký doanh nghiệp “đòn bẩy” cho khởi nghiệp, đầu tư

Rút ngắn đăng ký doanh nghiệp “đòn bẩy” cho khởi nghiệp, đầu tư

Rút ngắn thời gian đăng ký doanh nghiệp, hộ kinh doanh. Đây là cú hích mạnh mẽ, tạo thuận lợi tối đa cho khởi nghiệp và thu hút đầu tư, minh bạch hóa thủ tục.
Quy định mới về cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) thông qua Hệ thống eCoSys

Quy định mới về cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) thông qua Hệ thống eCoSys

Thông tư số 40/2025/TT-BCT của Bộ Công Thương quy định chi tiết về việc cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) và chấp thuận bằng văn bản cho thương nhân tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2025.
CEO Success Partner Lê Nhật Trường Chinh: Động lực không đến từ cổ vũ mà từ môi trường nuôi dưỡng

CEO Success Partner Lê Nhật Trường Chinh: Động lực không đến từ cổ vũ mà từ môi trường nuôi dưỡng

CEO Success Partner Lê Nhật Trường Chinh chia sẻ quan điểm sâu sắc: Người lãnh đạo giỏi không tạo động lực bằng lời khen, mà bằng cách xây dựng môi trường giúp nhân viên tự khơi dậy nội lực.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Cần thích ứng nhanh với thị trường phát thải

Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Cần thích ứng nhanh với thị trường phát thải

Trong bối cảnh xu hướng giảm phát thải trở thành tiêu chuẩn bắt buộc tại nhiều thị trường xuất khẩu lớn, doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước buộc phải thay đổi nhanh mô hình sản xuất và quản trị carbon. Việc chậm thích ứng không chỉ khiến mất đơn hàng, mà còn đẩy doanh nghiệp ra khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu.
Doanh nghiệp ngành nhôm: "Nâng cấp" bản thân để tránh rủi ro xuất khẩu

Doanh nghiệp ngành nhôm: "Nâng cấp" bản thân để tránh rủi ro xuất khẩu

Trước xu hướng hội nhập đa phương và xu thế bảo hộ nền sản xuất của các quốc gia hiện nay, thời gian qua, ngành nhôm liên tiếp đối mặt với các cuộc điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài, nhất là thị trường Mỹ
Doanh nghiệp ngành nhôm Việt Nam: Cùng nhận diện cơ hội và thách thức

Doanh nghiệp ngành nhôm Việt Nam: Cùng nhận diện cơ hội và thách thức

Nhằm tạo diễn đàn để cùng thảo luận tìm ra hướng đi mới cho ngành nhôm; đồng thời tạo kết nối cho các doanh nghiệp, sáng ngày 28/6, Hiệp hội Nhôm Việt Nam tổ chức Diễn đàn doanh nghiệp ngành nhôm Việt Nam 2025 với chủ đề “Nhận diện cơ hội và thách thức của ngành nhôm”.
Thuế - Trách nhiệm không thể bỏ qua trong kinh doanh số

Thuế - Trách nhiệm không thể bỏ qua trong kinh doanh số

Thương mại điện tử bùng nổ mở ra cơ hội kinh doanh chưa từng có, nhưng cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về tuân thủ nghĩa vụ thuế. Trong kỷ nguyên số, mọi hành vi né tránh nghĩa vụ tài chính với Nhà nước không chỉ gây thất thu ngân sách mà còn tạo ra sự bất bình đẳng trên thị trường.
Doanh nghiệp sử dụng năng lượng như thế nào giúp tiết kiệm và hiệu quả?

Doanh nghiệp sử dụng năng lượng như thế nào giúp tiết kiệm và hiệu quả?

Trong bối cảnh toàn cầu đang chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình phát triển xanh và bền vững, Việt Nam không đứng ngoài xu hướng đó. Góp phần vào thành quả đó có sự đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp.
CEO Jettainer: AI và vai trò không thể thay thế của con người trong quản lý ULD

CEO Jettainer: AI và vai trò không thể thay thế của con người trong quản lý ULD

Theo Tiến sĩ Jan-Wilhelm Breithaupt – Giám đốc điều hành Jettainer, giá trị cốt lõi của số hóa và trí tuệ nhân tạo (AI) không nằm ở việc loại bỏ con người khỏi quy trình, mà là cung cấp cho họ những công cụ sắc bén hơn và cái nhìn toàn diện hơn.
Gemadept sẽ mua vào cổ phiếu nếu thị giá dưới 1,5 lần giá sổ sách

Gemadept sẽ mua vào cổ phiếu nếu thị giá dưới 1,5 lần giá sổ sách

Lãnh đạo Gemadept cho biết có kế hoạch mua lại cổ phiếu công ty khi giá giảm xuống mức 1,5 lần giá trị sổ sách, đây là đảm bảo quyền lợi cho cổ đông.
Nhiều doanh nghiệp chấp nhận “hy sinh ngắn hạn” để khai mở lợi thế dài hạn với AI

Nhiều doanh nghiệp chấp nhận “hy sinh ngắn hạn” để khai mở lợi thế dài hạn với AI

Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam đang lựa chọn chiến lược đầu tư vào trí tuệ nhân tạo (AI) bất chấp những rủi ro ngắn hạn về doanh thu, nhằm chuẩn bị nền tảng công nghệ vững chắc cho cuộc cạnh tranh dài hạn.
Doanh nghiệp New Zealand tăng cường hợp tác với các nhà bán lẻ Việt

Doanh nghiệp New Zealand tăng cường hợp tác với các nhà bán lẻ Việt

Hàng loạt nông sản của New Zealand sẽ được bán tới người tiêu dùng Việt Nam thông qua hệ thống chuỗi siêu thị Kingfoodmart, như: Táo, kiwi, bơ sữa, rượu vang…