![]() |
Trong 31.000 hộ khoán lớn có doanh thu từ 1 tỷ đồng trở lên, đã có 16.000 hộ tại TP.HCM, 9.000 hộ tại Hà Nội. |
Trong bối cảnh triển khai rộng rãi hóa đơn điện tử từ máy tính tiền, việc cơ quan thuế xác định khoảng 31.000 hộ kinh doanh có doanh thu ước tính từ 1 tỷ đồng/năm trở lên là "hộ khoán lớn" và phải áp dụng hóa đơn điện tử từ máy tính tiền đã thu hút nhiều sự quan tâm từ dư luận. Tuy nhiên, theo bà Lê Thị Duyên Hải, Phó Tổng thư ký Hội Tư vấn Thuế Việt Nam, việc lựa chọn mốc doanh thu 1 tỷ đồng không phải là ngẫu nhiên, mà dựa trên các căn cứ thực tiễn trong công tác quản lý thuế.
Tại Tọa đàm “Hộ kinh doanh trước vấn nạn hàng giả và tuân thủ thuế” do Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập tổ chức mới đây, bà Lê Thị Duyên Hải, Phó Tổng thư ký Hội Tư vấn Thuế Việt Nam thông tin, theo số liệu hiện nay, cả nước có khoảng 5,2 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động thực tế. Tuy nhiên, số lượng hộ được cơ quan thuế đưa vào diện quản lý thường xuyên chỉ khoảng 3,6 triệu hộ. Đây là nhóm hộ kinh doanh cố định, hoạt động thường xuyên và nằm trong hệ thống quản lý liên tục của cơ quan thuế. Phần còn lại - khoảng 1,6 triệu hộ - là các hộ kinh doanh theo thời vụ, không thường xuyên, chỉ phát sinh giao dịch kinh doanh vào một vài thời điểm nhất định trong năm, thường được quản lý theo hình thức thuế khoán từng lần phát sinh và được cấp hóa đơn riêng cho từng giao dịch.
Trong 3,6 triệu hộ kinh doanh cố định, chỉ khoảng hơn một nửa có đăng ký kinh doanh chính thức và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký theo Nghị định 01. Số còn lại không đăng ký kinh doanh mà chỉ đến cơ quan thuế để đăng ký mã số thuế và thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định. Tức là về mặt thuế, không có sự bỏ sót đối tượng. Tuy nhiên, về mặt quản lý đăng ký kinh doanh, chúng ta mới quản lý được khoảng một nửa số hộ kinh doanh thực tế đang hoạt động.
"Lý do là vì Nghị định 01 cho phép các hộ kinh doanh quy mô nhỏ, lẻ, mang tính cá nhân, gia đình không bắt buộc phải đăng ký kinh doanh. Đồng thời, cũng chưa có chế tài đủ mạnh để yêu cầu các hộ này buộc phải đăng ký nếu không muốn. Do đó, nhiều hộ chỉ đến cơ quan thuế đăng ký mã số thuế và vẫn hoạt động kinh doanh bình thường", bà Hải lý giải.
![]() |
Bà Lê Thị Duyên Hải, Phó Tổng thư ký Hội Tư vấn Thuế Việt Nam. |
Về phân loại, trong số 3,6 triệu hộ kinh doanh cố định nói trên, hiện có khoảng 84.000 hộ có quy mô tương đương doanh nghiệp siêu nhỏ, tạm gọi là "hộ lớn". Các hộ này có doanh thu hoặc quy mô lao động đáng kể, ví dụ: ngành thương mại đạt từ 10 tỷ đồng trở lên, ngành dịch vụ ăn uống từ 3 tỷ đồng trở lên, hoặc sử dụng từ 10 lao động trở lên.
Bà Hải cho rằng, các hộ kinh doanh này thuộc nhóm hộ kê khai, tức là phải thực hiện khai thuế dựa trên doanh thu thực tế. Từ khi Luật Quản lý thuế số 38 có hiệu lực năm 2020 và theo quy định của Nghị định 123 về hóa đơn chứng từ, nhóm này đã phải sử dụng hóa đơn điện tử. Tuy nhiên, bà Hải chỉ ra thực tế là việc áp dụng hóa đơn điện tử vẫn đang ở mức khuyến khích, chưa bắt buộc hoàn toàn. Vì thế, hộ chỉ xuất hóa đơn khi khách hàng yêu cầu, còn phần lớn giao dịch bán hàng cho người tiêu dùng không lấy hóa đơn đều không được ghi nhận, dẫn đến một "vùng tối" doanh thu mà cơ quan thuế khó kiểm soát và không thể ước tính đầy đủ được.
"Trong trường hợp phát hiện chênh lệch thông qua kiểm tra các dòng tiền, chuyển khoản hay thông tin khác, cơ quan thuế sẽ tiến hành truy thu thuế đối với phần doanh thu chưa kê khai hoặc không xuất hóa đơn này", đại diện Hội Tư vấn Thuế Việt Nam cho biết.
Đối với nhóm hộ còn lại, trong 3,6 triệu hộ thì khoảng 800.000 - 900.000 hộ thuộc diện hộ khoán, tức là nộp thuế theo mức khoán cố định được cơ quan thuế ước tính từ đầu năm, dựa trên các yếu tố như quy mô kinh doanh, diện tích cửa hàng, số lao động, doanh thu năm trước,... Số thuế khoán được chia đều cho 12 tháng để hộ nộp hàng tháng.
Trong số hộ khoán nói trên, cơ quan thuế đã xác định có khoảng 31.000 hộ có doanh thu ước tính từ 1 tỷ đồng/năm trở lên được gọi là "hộ khoán lớn". Vậy vì sao lại chọn ngưỡng doanh thu từ 1 tỷ như vậy?
Bà Lê Thị Duyên Hải lý giải: "Sở dĩ chọn cột mốc 1 tỷ đồng vì đây là nhóm hộ có quy mô tương đối lớn, có khả năng áp dụng công nghệ, và chủ yếu tập trung tại các tỉnh, thành phố lớn. Rất nhiều người thắc mắc vì sao không thấy hóa đơn điện tử ở vùng sâu, vùng xa, lý do là vì không có hộ kinh doanh đạt doanh thu 1 tỷ ở những khu vực đó".
Cụ thể, theo bà Hải, trong 31.000 hộ khoán lớn có doanh thu từ 1 tỷ đồng trở lên, đã có 16.000 hộ tại TP.HCM, 9.000 hộ tại Hà Nội, và phần còn lại tập trung tại các thành phố lớn khác. Vùng sâu, vùng xa gần như không có hộ nào thuộc nhóm này. "Do đó, hoàn toàn không đúng khi dư luận cho rằng yêu cầu xuất hóa đơn điện tử áp dụng cho cả những người bán rau, bán cá nhỏ lẻ. Đây là một hiểu lầm xuất phát từ tâm lý đám đông và sự chưa hiểu chính xác về truyền thông. Những đối tượng nhỏ lẻ đó không phải là nhóm bị áp dụng hóa đơn điện tử gắn máy tính tiền. Như vậy, 31.000 hộ khoán có doanh thu từ 1 tỷ trở lên, tạm gọi là "hộ khoán lớn", nằm trong tổng số khoảng 900.000 hộ khoán. Tôi cho rằng những phản ứng vừa qua trong dư luận là chưa đúng trọng tâm, do hiểu nhầm phạm vi áp dụng", bà Duyên Hải nhận định.
Về phân loại, nếu trừ đi khoảng 1 triệu hộ kê khai và khoán, thì còn lại khoảng 2,6 triệu hộ là các hộ kinh doanh quy mô nhỏ, trong đó có hơn 1 triệu hộ không thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân và thuế giá trị gia tăng (vì doanh thu dưới 100 triệu đồng/năm, tới đây có thể nâng ngưỡng lên 200 triệu, do đó con số 1 triệu hộ còn có thể nhiều hơn nữa). Những hộ này miễn hoàn toàn nghĩa vụ thuế và các thủ tục về thuế.
![]() |
Việc triển khai hóa đơn điện tử, đặc biệt là với nhóm hộ khoán lớn hiện nay không nhằm siết chặt hay gây khó dễ cho hộ kinh doanh, mà là để minh bạch hóa doanh thu, thu hẹp khoảng trống thất thu thuế |
Cũng tại Tọa đàm “Hộ kinh doanh trước vấn nạn hàng giả và tuân thủ thuế”, bà Hải đã làm rõ nhiều nội dung quan trọng liên quan đến quản lý thuế với hộ kinh doanh, đặc biệt là vấn đề hóa đơn điện tử đang gây nhiều bàn luận trong dư luận. Bà thông tin thêm, trong tổng số 3,6 triệu hộ kinh doanh đang được quản lý, hiện đang chia làm bốn loại chính:
Thứ nhất là hộ kê khai (khoảng 84.000 hộ): Đây là những hộ có quy mô tương đối lớn, nộp thuế dựa trên doanh thu thực tế khai báo. Từ khi Nghị định 70 có hiệu lực, các hộ này bắt buộc phải sử dụng hóa đơn, được lựa chọn giữa hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế hoặc hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền.
Thứ hai là hộ khoán lớn (khoảng 31.000 hộ): Nhóm này có doanh thu ước tính từ 1 tỷ đồng/năm trở lên, được đánh giá là có khả năng áp dụng công nghệ, tập trung chủ yếu ở các đô thị lớn như TP.HCM (16.000 hộ) và Hà Nội (9.000 hộ). Những hộ này sẽ được áp dụng hóa đơn điện tử gắn với máy tính tiền để đảm bảo ghi nhận chính xác doanh thu thực tế.
Rất nhiều người hiểu sai rằng quy định mới yêu cầu cả những người bán rau, bán cá nhỏ lẻ cũng phải sử dụng máy tính tiền và hóa đơn điện tử. Điều này hoàn toàn không đúng. Những người bán hàng nhỏ lẻ ở vùng sâu vùng xa gần như không thuộc nhóm này vì họ không đạt ngưỡng doanh thu tối thiểu.
Cũng có nhận định cho rằng con số doanh thu 1 tỷ đồng là một ngưỡng "quá bé", "quá thấp" so với thực tế doanh thu khi chưa áp dụng hóa đơn điện tử
Thứ ba là các hộ khoán còn lại: Nhóm này chiếm phần lớn trong số các hộ nộp thuế theo phương pháp khoán. Đối với các hộ khoán, doanh thu và số thuế phải nộp được ước tính vào đầu năm cho cả một năm và sau đó được nộp cố định hàng tháng. Trong trường hợp có đột biến thay đổi doanh thu khoán vượt quá 50%, hộ kinh doanh phải điều chỉnh từ tháng phát sinh đột biến. Nếu hộ kinh doanh tạm ngừng hoạt động do ốm đau hoặc lý do khác, họ có thể làm đơn để được cơ quan thuế điều chỉnh giảm mức khoán
Cuối cùng là hộ kinh doanh miễn thuế: Có khoảng hơn 1 triệu hộ kinh doanh được miễn thuế hoàn toàn và miễn mọi thủ tục về thuế. Đây là những hộ không thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng và thu nhập cá nhân, với doanh thu dưới 100 triệu đồng (con số này dự kiến sẽ tăng lên dưới 200 triệu đồng trong tương lai, làm tăng số lượng hộ miễn thuế).
Một vấn đề nổi bật được bà Hải đề cập là khoảng trống doanh thu trong hệ thống, đặc biệt với các hộ kê khai. Họ thường bán hàng cho cả doanh nghiệp (có yêu cầu xuất hóa đơn) và người tiêu dùng cá nhân (thường không lấy hóa đơn), dẫn đến tình trạng nhiều giao dịch không được ghi nhận. Để khắc phục điều này, bà Hải cho rằng hóa đơn khởi tạo từ máy tính tiền đã được triển khai. Điểm đặc biệt là loại hóa đơn này không yêu cầu thông tin người mua như mã số thuế, số điện thoại hay căn cước công dân, giúp đảm bảo quyền riêng tư, đồng thời buộc người bán phải xuất hóa đơn cho mọi giao dịch, kể cả bán lẻ.
Theo bà Hải, việc áp dụng hóa đơn điện tử từ máy tính tiền đã cho thấy hiệu quả rõ rệt. Có những trường hợp, doanh thu ghi nhận tăng gấp 50 lần chỉ trong tháng đầu tiên áp dụng, phản ánh rõ ràng doanh thu thật của hộ kinh doanh. Và do đó, mức doanh thu 1 tỷ đồng thực chất chỉ là ngưỡng ước tính trước khi có hóa đơn đầy đủ, còn doanh thu thật sau khi minh bạch có thể cao hơn nhiều lần.
"Điều này cho thấy việc bắt buộc xuất hóa đơn không chỉ giúp minh bạch hóa nền kinh tế, mà còn là công cụ kiểm soát doanh thu chính xác cho cơ quan thuế", bà Hải chia sẻ.
Có thể thấy rằng, việc triển khai hóa đơn điện tử, đặc biệt là với nhóm hộ khoán lớn hiện nay không nhằm siết chặt hay gây khó dễ cho hộ kinh doanh, mà là để minh bạch hóa doanh thu, thu hẹp khoảng trống thất thu thuế, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và tăng cường kỷ cương thị trường. "Những hiểu lầm thông tin cần được gỡ bỏ để chính sách thuế đi đúng bản chất và đối tượng mà nó hướng tới", bà Hải nhận định.