Sử dụng tín chỉ carbon là chiến lược bù đắp khí nhà kính
Trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực thực hiện cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, việc áp dụng vật liệu xây dựng xanh trở thành một yếu tố quan trọng. Vật liệu xây dựng xanh, như bê tông nhựa Carboncor Asphalt (CA) và các vật liệu tái chế, đóng vai trò then chốt trong việc giảm phát thải khí nhà kính và trung hòa carbon. CA, chẳng hạn, được sản xuất và thi công ở nhiệt độ thường, giúp giảm tới 71,8% lượng khí CO2 so với bê tông nhựa nóng truyền thống, đồng thời tiết kiệm năng lượng tiêu thụ lên đến 78,4%. Sự giảm thiểu này không chỉ giúp giảm ô nhiễm môi trường mà còn hỗ trợ mục tiêu phát thải thấp hơn của Việt Nam.
Hơn nữa, các vật liệu xây dựng xanh thường được sản xuất từ nguyên liệu tái chế hoặc có khả năng tái chế cao, góp phần giảm lượng chất thải xây dựng. Ví dụ, gạch và bê tông sản xuất từ tro bay hoặc chất thải công nghiệp không chỉ giảm lượng chất thải mà còn giảm nhu cầu về nguyên liệu thô, giảm thiểu sự khai thác tài nguyên thiên nhiên. Việc sử dụng các vật liệu này giúp giảm lượng khí CO2 phát thải trong quá trình sản xuất và xây dựng, đồng thời thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.
Ngoài việc giảm phát thải khí nhà kính, vật liệu xây dựng xanh cũng giúp nâng cao hiệu quả năng lượng trong các công trình xây dựng. Các vật liệu như cách nhiệt hiệu suất cao và lớp phủ phản xạ nhiệt giúp giảm nhu cầu sử dụng năng lượng cho hệ thống điều hòa không khí và sưởi ấm, từ đó giảm lượng khí thải carbon liên quan đến tiêu thụ năng lượng. Việc tích hợp các giải pháp này trong xây dựng không chỉ giúp giảm mức tiêu thụ năng lượng mà còn hỗ trợ việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.
Như vậy, việc áp dụng vật liệu xây dựng xanh là một bước quan trọng để Việt Nam giảm phát thải khí nhà kính và hướng tới mục tiêu trung hòa carbon. Những vật liệu này không chỉ giúp cải thiện hiệu quả môi trường trong ngành xây dựng mà còn đóng góp vào nỗ lực chung của quốc gia trong việc bảo vệ trái đất cho các thế hệ tương lai.
Tín chỉ carbon trong ngành vật liệu xây dựng có thể được sử dụng theo nhiều cách khác nhau để thúc đẩy phát triển bền vững. Các công ty sản xuất vật liệu xây dựng có thể thu mua tín chỉ carbon để bù đắp cho lượng phát thải CO2 trong quá trình sản xuất của họ. Đồng thời, các dự án xây dựng có thể sử dụng tín chỉ carbon như một phần của chiến lược bù đắp khí nhà kính trong khi thực hiện các cải tiến công nghệ và quy trình để giảm phát thải. Ví dụ, các dự án xây dựng với công nghệ xanh như bê tông nhựa Carboncor Asphalt (CA) có thể kiếm được tín chỉ carbon thông qua việc giảm phát thải so với các vật liệu truyền thống.
Việc áp dụng tín chỉ carbon trong ngành vật liệu xây dựng không chỉ giúp các công ty và dự án đạt được các mục tiêu giảm phát thải mà còn tạo ra động lực cho việc phát triển và áp dụng công nghệ xanh. Tín chỉ carbon có thể làm tăng giá trị thương hiệu và sự cạnh tranh của các công ty trong thị trường xây dựng, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các khoản đầu tư vào các giải pháp bền vững. Hơn nữa, việc mua và sử dụng tín chỉ carbon có thể hỗ trợ các dự án bảo vệ môi trường, như trồng rừng hoặc cải tạo đất, giúp cân bằng tác động môi trường từ ngành xây dựng.
Để quản lý và giám sát việc sử dụng tín chỉ carbon hiệu quả, các tiêu chuẩn và quy định cần được thiết lập rõ ràng. Việc công nhận và chứng nhận tín chỉ carbon phải dựa trên các phương pháp đo lường và kiểm tra đáng tin cậy để đảm bảo tính chính xác và minh bạch. Các cơ quan quản lý và tổ chức chứng nhận phải làm việc chặt chẽ với các bên liên quan trong ngành xây dựng để xây dựng hệ thống tín chỉ carbon hiệu quả, đồng thời thúc đẩy việc áp dụng các công nghệ và vật liệu giảm phát thải.
Việt Nam đã áp dụng CA trong nhiều dự án từ năm 2008 và chính thức cấp phép vào năm 2009. CA đã được sử dụng rộng rãi trên toàn quốc trong các dự án nâng cấp và cải tạo đường giao thông. Kết quả khảo sát cho thấy, mặt đường CA duy trì độ bằng phẳng tốt, độ nhám đồng đều, và không có hiện tượng hư hỏng đáng kể. Tuy nhiên, cần nghiên cứu thêm các tiêu chuẩn và thông số kỹ thuật để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của các công trình sử dụng CA.
Carboncor Asphalt góp phần vào cam kết của Việt Nam đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050
Carboncor Asphalt (CA) là một loại bê tông nhựa đặc biệt được sản xuất và thi công ở nhiệt độ thường, mang lại nhiều lợi ích về môi trường. Công nghệ CA được coi là giải pháp xanh, thân thiện với môi trường nhờ khả năng giảm phát thải khí nhà kính. Theo nghiên cứu của Trường Đại học Giao thông Vận tải năm 2024, tổng phát thải khí nhà kính của CA chỉ đạt 11,7 kg CO2-eq/tấn bê tông, giảm tới 71,8% so với bê tông nhựa nóng (BTNN), với mức phát thải lên tới 41,5 kg CO2-eq/tấn bê tông. Hơn nữa, mức tiêu thụ năng lượng của CA là 111,5 MJ/tấn bê tông, giảm 78,4% so với 516,6 MJ/tấn bê tông của BTNN. Những số liệu này cho thấy, CA là một giải pháp hiệu quả trong việc giảm phát thải khí nhà kính, góp phần vào cam kết của Việt Nam đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, như đã được nêu tại Hội nghị COP26 và khẳng định tiếp tục tại COP28.
Theo đó, Carboncor Asphalt đã được thử nghiệm thành công tại Việt Nam từ năm 2008 và được Bộ Giao thông Vận tải chính thức cấp phép vào năm 2009. Đến năm 2014, Tổng Cục Đường bộ Việt Nam đã ban hành TCCS 09:2014 về thi công và nghiệm thu lớp CA trong xây dựng và sửa chữa kết cấu áo đường ô tô. Kể từ đó, CA đã được áp dụng rộng rãi ở ba miền Bắc, Trung, Nam và cả đảo Cô Tô. Nó đã được sử dụng cho các dự án nâng cấp, cải tạo và làm mới đường từ quốc lộ, tỉnh lộ đến các tuyến đường huyện và liên xã.
Mặc dù CA đã được sử dụng rộng rãi, các tiêu chuẩn hiện hành vẫn chưa bao gồm các kết cấu điển hình và thông số lớp vật liệu CA. Do đó, việc nghiên cứu để xác định các thông số vật liệu CA phục vụ thiết kế kết cấu áo đường mềm theo TCCS 38 và TCCS 37 là cần thiết. Điển hình như, mặt đường các dự án sử dụng CA ở cả ba miền và đảo Cô Tô, từ đó đề xuất các kết cấu điển hình cho việc sử dụng CA tại Việt Nam.
Trong hơn một thập kỷ qua, vật liệu Carboncor Asphalt (CA) đã được áp dụng cho trên 1.100 công trình, với tổng chiều dài vượt 2.000 km trên toàn quốc, từ Bắc vào Nam. Để đánh giá hiệu quả thực tế của các dự án sử dụng CA, vào năm 2023, Công ty cổ phần Carboncor Việt Nam phối hợp với các Chủ đầu tư, Phòng Thí nghiệm trọng điểm đường bộ I – Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải, cùng nhóm nghiên cứu, tiến hành khảo sát các dự án tại cả ba miền Bắc, Trung và Nam. Các tuyến đường được khảo sát bao gồm huyện đảo Cô Tô và đường tỉnh 329 ở Quảng Ninh (miền Bắc), các tuyến đường tại Nghệ An và Hà Tĩnh (miền Trung), cùng với các tuyến tại Đồng Nai và Bến Tre (miền Nam).
Đại diện Công ty cổ phần Carboncor Việt Nam cho biết, công tác đánh giá thực hiện bao gồm nhiều phương diện để kiểm tra chất lượng mặt đường CA. Cụ thể, nhóm khảo sát đã tiến hành nhận xét và đánh giá tình trạng chung của mặt đường, xác định các dạng hư hỏng nếu có. Các chỉ tiêu kỹ thuật được kiểm tra bao gồm đo độ bằng phẳng mặt đường bằng thước 3 m theo TCVN 8864:2011, đo độ nhám mặt đường bằng phương pháp rắc cát và con lắc Anh theo các tiêu chuẩn TCVN 8866:2011 và ASTM E303, và đo vệt hằn lún bánh xe bằng thước thép 3m nếu có.
“Kết quả khảo sát hiện trạng mặt đường tại các dự án sử dụng vật liệu Carboncor Asphalt (CA) sau thời gian khai thác từ 1 đến 12 năm cho thấy bề mặt áo đường vẫn duy trì độ bằng phẳng ổn định, với các chỉ số đo độ bằng phẳng bằng thước 3m đều đạt yêu cầu. Kết cấu áo đường tỏ ra ổn định với độ nhám bề mặt đồng đều, và cả phương pháp rắc cát lẫn phương pháp con lắc Anh đều cho kết quả đạt tiêu chuẩn, đảm bảo các điều kiện khai thác”, vị đại diện này chia sẻ.
Ngoài ra, không có hiện tượng xô dồn, bong bật vật liệu, hay hằn lún vệt bánh xe trên các tuyến đường sử dụng CA. Dính bám giữa lớp vật liệu CA và lớp mặt dưới (bao gồm cả lớp bê tông xi măng) được đánh giá là khá tốt. Tuy nhiên, tại các dự án có lớp CA trên bê tông xi măng cũ, sau từ 1 đến 6 năm khai thác, xuất hiện nứt phản ánh tại các vị trí khe co giãn của mặt đường bê tông xi măng.
Phan Chính