![]() |
Ông Trần Tuấn Tú – Trưởng Phòng BHTN, Cục Việc làm (Bộ Nội vụ) |
Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được đánh giá là một giải pháp nhân văn, thiết thực nhằm hỗ trợ người lao động (NLĐ) khi không may mất việc làm. Tuy nhiên, bên cạnh những hiệu quả rõ rệt, chính sách này cũng đang bộc lộ một số bất cập cần được điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tiễn.
Trao đổi với phóng viên Doanh nghiệp & Hội nhập, ông Trần Tuấn Tú – Trưởng Phòng BHTN, Cục Việc làm (Bộ Nội vụ) – đã có những chia sẻ cụ thể về quá trình thực hiện và những định hướng sắp tới đối với chính sách BHTN.
Xin ông chia sẻ thông tin về kết quả thực hiện chính sách BHTN trong thời gian qua?
Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được chính thức triển khai từ năm 2009. Sau hơn 16 năm thực hiện, trải qua hai giai đoạn, chính sách này ngày càng thể hiện rõ tính ưu việt, mang lại những lợi ích thiết thực cho cả người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ). Hiện nay, Bộ Nội vụ đang phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương cùng các tổ chức liên quan nhằm mở rộng phạm vi thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi để NLĐ dễ dàng tiếp cận và thụ hưởng chính sách.
Đặc biệt, thay vì phải đến trực tiếp các cơ quan chức năng, NLĐ đã có thể thực hiện thủ tục đề nghị hưởng BHTN trực tuyến thông qua Cổng Dịch vụ công Quốc gia – một bước tiến lớn trong cải cách hành chính, giúp tiết kiệm thời gian và công sức cho người dân.
Bên cạnh đó, hệ thống hồ sơ, giấy tờ của người thụ hưởng đã được tích hợp, liên thông với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, góp phần cắt giảm đáng kể các thủ tục giấy tờ, đơn giản hóa quy trình thực hiện.
Hiện nay, chính sách BHTN đang nhận được sự đồng thuận và đánh giá tích cực từ cả NLĐ lẫn NSDLĐ. Đây là một chính sách giàu tính nhân văn, thể hiện rõ vai trò bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động và hỗ trợ doanh nghiệp khi gặp khó khăn. Dù mức đóng BHTN còn tương đối thấp, nhưng trong trường hợp mất việc, NLĐ vẫn có thể nhận được mức trợ cấp lên tới 200% so với số tiền đã đóng vào Quỹ BHTN.
Riêng trong giai đoạn đại dịch Covid-19, Quỹ BHTN đã phát huy vai trò quan trọng khi kịp thời chi trả hỗ trợ bằng tiền mặt cho NLĐ với tổng số tiền hơn 32.000 tỷ đồng và hỗ trợ NSDLĐ hơn 9.000 tỷ đồng – nâng tổng mức chi hỗ trợ lên hơn 41.000 tỷ đồng.
Thưa ông, hiện nhiều lao động phản ánh rằng mức trợ cấp thất nghiệp (TCTN) còn thấp, chưa đủ để đảm bảo cuộc sống khi họ mất việc. Vấn đề này đã được xem xét trong Dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) chưa?
Quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) hoạt động trên nguyên tắc "đóng – hưởng", nghĩa là người lao động đóng nhiều sẽ được hưởng nhiều. Do đó, việc xác định mức đóng và mức hưởng cần được tính toán trên cơ sở cân đối tài chính của quỹ. Hiện nay, chúng ta đang hướng tới việc tính mức đóng BHTN dựa trên thu nhập thực tế. Tuy nhiên, trên thực tế, mức đóng chủ yếu vẫn dựa vào tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội (BHXH), thường gắn với lương tối thiểu vùng và các khoản phụ cấp, nên mặt bằng tiền lương tính đóng còn thấp.
Ví dụ, mức tiền lương bình quân làm cơ sở đóng BHTN hiện khoảng 6 triệu đồng/tháng – một con số chưa phản ánh đầy đủ thu nhập thực tế của nhiều lao động. Với nền đóng như vậy, mức trợ cấp được tính bằng 60% là hoàn toàn hợp lý, không thể xem là thấp.
Trong quá trình xây dựng chính sách, điều tối kỵ là việc cắt giảm quyền lợi hiện hành của người tham gia, đồng thời lại gia tăng nghĩa vụ hoặc đưa ra các quy định mang tính ràng buộc. Do đó, nếu không điều chỉnh tăng mức đóng thì việc nâng mức hưởng là điều khó khả thi.
Riêng với đội ngũ công chức, trong trường hợp chuyển từ chế độ biên chế suốt đời sang hình thức hợp đồng lao động, cách thức tham gia BHTN cũng sẽ thay đổi. Khi đó, quan hệ lao động sẽ được thiết lập thông qua hợp đồng có thời hạn rõ ràng – tức là có thời điểm bắt đầu và kết thúc. Trong bối cảnh đó, Nhà nước với tư cách là người sử dụng lao động vẫn sẽ có trách nhiệm tham gia và đóng BHTN cho người lao động theo đúng quy định.
Hiện có ý kiến cho rằng việc chuyển hưởng chính sách BHTN của người lao động gặp khó khăn do vấn đề nơi cư trú. Ông có nhận xét gì về việc này?
![]() |
Cổng Dịch vụ công Quốc gia là một kênh bổ sung, cho phép người lao động nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp trực tuyến nếu thấy thuận tiện |
Thực tế hiện nay, việc chuyển hưởng trợ cấp thất nghiệp không bị giới hạn bởi yếu tố nơi cư trú của người lao động. Sau khi chấm dứt hợp đồng lao động và có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp, người lao động có thể nộp hồ sơ tại bất kỳ địa phương nào thuận tiện, phù hợp với điều kiện cá nhân – có thể là nơi cư trú, nơi tạm trú hoặc nơi thường trú.
Chẳng hạn, một lao động từng làm việc tại TP.Hồ Chí Minh, đóng BHTN tại chi nhánh của doanh nghiệp đặt ở Hà Nội, khi mất việc hoàn toàn có thể về quê hoặc đến một tỉnh, thành khác để nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp.
Bên cạnh đó, Cổng Dịch vụ công Quốc gia là một kênh bổ sung, cho phép người lao động nộp hồ sơ trực tuyến nếu thấy thuận tiện. Tuy nhiên, đây không phải là phương thức thay thế hoàn toàn việc nộp hồ sơ trực tiếp – người lao động vẫn có quyền tự lựa chọn hình thức phù hợp nhất.
Hiện Cục Việc làm cũng đã phối hợp với Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội (C12) triển khai thí điểm 6 dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia. Đây là bước tiến trong cải cách hành chính, giúp đa dạng hóa kênh tiếp cận và tạo thêm sự linh hoạt cho người lao động.
Tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn nhận rằng hệ thống dữ liệu quốc gia vẫn đang trong quá trình hoàn thiện nên trong quá trình triển khai thực tế, một số vướng mắc vẫn có thể phát sinh.
Hiện nay, Trung ương đang triển khai chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính. Theo tính toán, có hơn 13.000 cán bộ, công chức có khả năng rơi vào diện dôi dư. Vậy, nếu nhóm đối tượng này không được hỗ trợ theo chính sách tại Nghị định 178 và Nghị định 67 của Chính phủ, họ có được hưởng bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) không, thưa ông?
![]() |
Đối với viên chức hoặc người lao động làm việc theo hợp đồng lao động – những đối tượng có tham gia BHTN – nếu nghỉ việc vì lý do sắp xếp tổ chức bộ máy, họ hoàn toàn đủ điều kiện để hưởng BHTN theo quy định hiện hành. |
Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là một chính sách mang tính chất ngắn hạn, hoạt động theo nguyên tắc “đóng – hưởng” và chia sẻ rủi ro trong thị trường lao động. Vì vậy, chỉ những người lao động có tham gia đóng BHTN mới được hưởng quyền lợi từ chính sách này. Đối với cán bộ, công chức – hiện không thuộc nhóm đối tượng tham gia BHTN – thì khi nghỉ việc sẽ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định của Luật Việc làm.
Tuy nhiên, khi nghỉ việc, nhóm cán bộ, công chức này vẫn được xem xét hưởng trợ cấp thôi việc theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, do đó, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách đặc thù nhằm hỗ trợ các đối tượng bị ảnh hưởng, bao gồm cả những trường hợp dôi dư do sắp xếp đơn vị hành chính hoặc tinh giản biên chế.
Riêng đối với viên chức hoặc người lao động làm việc theo hợp đồng lao động – những đối tượng có tham gia BHTN – nếu nghỉ việc vì lý do sắp xếp tổ chức bộ máy, họ hoàn toàn đủ điều kiện để hưởng BHTN theo quy định hiện hành. Thậm chí, trong trường hợp các đối tượng này đủ điều kiện hưởng chính sách hỗ trợ theo Nghị định 178 và Nghị định 67, thì vẫn đồng thời được hưởng chính sách BHTN nếu đã tham gia đóng trước đó.
Ngoài việc mở rộng đối tượng tham gia BHTN là người lao động có hợp đồng lao động từ 1 tháng trở lên, dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) còn đề cập đến nhóm “đối tượng khác”. Cụ thể, nhóm đối tượng này bao gồm những ai, thưa ông?
![]() |
Dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) đề xuất mở rộng đối tượng tham gia BHTN bắt buộc đối với một số nhóm cụ thể. Bao gồm: người lao động làm việc theo hợp đồng ngắn hạn (từ 1 tháng trở lên), người lao động làm việc không trọn thời gian nhưng có thu nhập ổn định. |
Dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) hiện đang được xây dựng trên tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH), trong đó có nội dung liên quan đến mở rộng chính sách BHTN.
Theo Nghị quyết 28, mục tiêu đặt ra là đến cuối năm 2024, số người tham gia BHTN đạt trên 16 triệu người, chiếm gần 32% lực lượng lao động trong độ tuổi. Mục tiêu này tiếp tục được nâng lên 35% vào năm 2025 và 45% vào năm 2030.
Về mặt đối tượng tham gia, việc mở rộng sẽ được thực hiện trên cơ sở rà soát các nhóm lao động đã thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của Luật BHXH năm 2014 và Luật BHXH sửa đổi năm 2024. Dù mở rộng, chính sách BHTN vẫn giữ nguyên nguyên tắc cốt lõi: đây là chính sách ngắn hạn, nhằm chia sẻ rủi ro trên cơ sở mức tiền lương làm căn cứ đóng góp.
Tuy nhiên, nếu mở rộng theo hướng tham gia tự nguyện nhưng không kiểm soát chặt chẽ, rất dễ phát sinh tình trạng trục lợi quỹ. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, một số nước cho phép BHTN tự nguyện, nhưng thường đi kèm với cơ chế quản lý bằng tài khoản cá nhân. Trong khi đó, phần lớn các quốc gia vẫn quy định BHTN là chính sách bắt buộc đối với người lao động.
Đối với dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi), Tổ soạn thảo hiện đã đề xuất mở rộng đối tượng tham gia BHTN bắt buộc đối với một số nhóm cụ thể. Bao gồm: người lao động làm việc theo hợp đồng ngắn hạn (từ 1 tháng trở lên), người lao động làm việc không trọn thời gian nhưng có thu nhập ổn định. Dự thảo cũng kiến nghị giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội thẩm quyền xem xét, quyết định việc mở rộng thêm các nhóm đối tượng tham gia BHTN bắt buộc trên cơ sở đề xuất của Chính phủ – sau khi có đánh giá đầy đủ về khả năng quản lý việc làm và thu nhập của các nhóm này.
Xin cảm ơn ông!