![]() |
Thực tế hiện nay cho thấy, không ít doanh nghiệp đang gặp khó khăn, kéo theo hàng loạt người lao động rơi vào cảnh mất việc làm. Không còn thu nhập ổn định, họ buộc phải xoay xở giữa ranh giới sinh kế trước mắt và quyền lợi lâu dài, mà nhiều người chọn rút bảo hiểm xã hội một lần – đồng nghĩa với việc tự rút lui khỏi hệ thống an sinh. Đây không chỉ là một hành động cá nhân trong bối cảnh khó khăn, mà còn là tín hiệu đáng lo về sự suy yếu của hệ thống bảo vệ người lao động, đặt ra hàng loạt vấn đề cấp thiết về chính sách, thị trường lao động và trách nhiệm xã hội.
Tại Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội, giữa cái nóng oi ả của mùa hè, phòng chờ gần như không còn chỗ trống. Người đến làm thủ tục trợ cấp thất nghiệp, người đến để được tư vấn tìm việc mới. Trong số đó có Hoàng Yến Như (27 tuổi), cử nhân ngành Ngôn ngữ của Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Khi chúng tôi tới ghi nhận thực tế, Như đang ngồi đợi đến lượt nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp.
Trước đây, Như là nhân viên một công ty công nghệ tư nhân tại Hà Nội. Sau khi một bộ phận của công ty bị giải thể, cô và hàng chục đồng nghiệp bị mất việc. Công việc cũ giúp cô có thu nhập 12 triệu đồng mỗi tháng, vừa đủ để trang trải sinh hoạt gia đình và gửi con học trường mầm non tư. Nhưng kể từ khi nghỉ việc, mọi thứ đảo chiều: Chồng cô phải chạy Grab 12–14 giờ mỗi ngày, còn cô tranh thủ bán hàng online, thanh lý đồ dùng trong nhà để cầm cự trong lúc tìm việc mới.
“Tôi từng nghĩ đến việc rút bảo hiểm xã hội một lần. Tuy nhiên, tìm hiểu thì thấy nếu rút cũng không được bao nhiêu vì tôi mới tham gia đóng được 40 tháng. Từ lúc mất việc đến giờ, tôi cũng dừng đóng luôn rồi,” Như chia sẻ.
Tại TP. Hồ Chí Minh, chúng tôi kết nối với chị Nguyễn Thị Mai Lan (47 tuổi), thông qua hỗ trợ của Trung tâm Dịch vụ việc làm Thành phố. Chị là mẹ đơn thân, vừa nuôi con nhỏ 11 tuổi, vừa chăm sóc mẹ già tai biến. Trước đây, chị là Kế toán trưởng một công ty tư nhân. Sau khi công ty giải thể vào tháng 5/2024, đến tháng 2/2025, cơ quan BHXH yêu cầu chị chốt sổ để làm hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Trong bối cảnh gánh nặng tài chính chồng chất với khoản nợ hơn 480 triệu đồng, chị Lan xem trợ cấp thất nghiệp như chiếc phao tạm thời. Song chừng đó vẫn không đủ để vượt qua giai đoạn khó khăn. “Tôi muốn rút bảo hiểm xã hội một lần. Biết là mất quyền lợi sau này, nhưng hiện tại không rút thì khó mà xoay sở. Việc làm giờ rất khó kiếm vì tôi vừa lớn tuổi, vừa không linh hoạt như người trẻ…,” chị bộc bạch.
Một trường hợp khác tại TP. Hồ Chí Minh là chị Vũ Xuân Yến (39 tuổi), từng làm cho một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sau khi công ty phá sản do hàng nhập không tiêu thụ được, chị nghỉ việc, rồi mang thai và sinh con. Hiện con chị mới 7 tháng tuổi. Đã tham gia đóng BHXH được 5 năm 4 tháng, chị đang làm thủ tục rút một lần. “Nếu rút thì được hơn một trăm triệu đồng, số tiền này có thể giúp gia đình trang trải tạm thời. Trợ cấp thất nghiệp tôi đã nhận gần một năm trước rồi. Giờ chỉ mong kinh tế sớm ổn định để đi làm lại, rồi tham gia bảo hiểm tiếp,” chị nói trong cuộc trò chuyện cùng chúng tôi.
![]() |
![]() |
Giám đốc Trung tâm Quốc gia về Dịch vụ việc làm, ông Ngô Xuân Liễu, cho biết: đến cuối tháng 6 năm nay, cả nước đã tiếp nhận 390.548 hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp. Riêng trong tháng 6, có tới 56.938 người được quyết định chi trả, tăng 38% so với tháng trước. Tuy nhiên, số người được kết nối việc làm còn quá khiêm tốn – chỉ 9.558 người, tương đương khoảng 9% tổng số được tư vấn. Điều đó cho thấy, hiệu quả tái hòa nhập thị trường lao động vẫn còn thấp.
Ông Tạ Văn Thảo – Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội cũng thông tin, từ đầu năm đến nay có 31.190 người đăng ký nhận trợ cấp thất nghiệp, riêng tháng 6 là 3.980 hồ sơ. Trong cùng thời gian, số người tìm việc cũng rất cao, lên tới 27.734 người. Điều này phản ánh áp lực lớn từ làn sóng mất việc. Qua theo dõi tại các trung tâm thuộc Sở Nội vụ các tỉnh, thành cho thấy, phần lớn người lao động đến làm thủ tục là lao động phổ thông, làm trong các ngành chế biến, may mặc, chế tạo và dịch vụ. Họ thường có thu nhập thấp, mong muốn tìm công việc gần nhà, lương cao hơn.
Dù vậy, các trung tâm đang gặp không ít khó khăn: Thiếu nhân lực chuyên môn, cơ chế tài chính chưa linh hoạt, nhiều doanh nghiệp lại chuyển sang tuyển dụng trực tiếp mà không thông qua kênh trung gian. Những điều đó khiến vai trò kết nối việc làm vẫn chưa phát huy hết tiềm năng.
![]() |
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Mạnh Khương đánh giá, phát triển kinh tế-xã hội là yếu tố then chốt để tạo việc làm ổn định, nâng cao năng suất lao động. Khi doanh nghiệp – chủ thể trung tâm của nền kinh tế bị suy yếu hoặc rút lui khỏi thị trường, hệ lụy sẽ lan rộng, ảnh hưởng trực tiếp tới thị trường lao động và hệ thống an sinh xã hội. Việc doanh nghiệp đóng cửa, thu hẹp sản xuất dẫn đến giảm nhu cầu tuyển dụng, khiến cơ hội quay lại thị trường của người lao động ngày càng khó khăn. Trong bối cảnh đó, hệ thống an sinh cũng chịu áp lực lớn.
Phần lớn lao động ngoài khu vực nhà nước có thu nhập thấp, gần như không có tích lũy, khi mất việc phải xoay xở tài chính tức thời trong khi hỗ trợ chưa kịp đến. Nhiều người xem bảo hiểm xã hội như một khoản tiết kiệm ngắn hạn thay vì điểm tựa an sinh dài lâu. Hệ thống bảo hiểm thất nghiệp cũng chưa phát huy hiệu quả: dịch vụ tư vấn, đào tạo, giới thiệu việc làm còn hạn chế, chưa đủ sức giữ người lao động ở lại thị trường.
Mặt khác, những rào cản về pháp lý như yêu cầu thời gian đóng BHXH tối thiểu 20 năm để đủ điều kiện nhận lương hưu cũng khiến nhiều người cảm thấy không khả thi để tiếp tục. Trong khi đó, BHXH tự nguyện vẫn chưa hấp dẫn vì thiếu các chế độ ngắn hạn và mức hỗ trợ thấp. Việc rút BHXH một lần khiến người lao động không chỉ mất lương hưu và thẻ BHYT khi về già, mà còn mất luôn thời gian đóng đã tích lũy nếu quay lại sau này.
![]() |
Trước thực trạng đó, Thứ trưởng Nguyễn Mạnh Khương khẳng định, điều quan trọng nhất là phải đưa chính sách đi vào cuộc sống. Hệ thống an sinh phải thật sự đồng hành cùng người lao động, không chỉ dừng ở văn bản pháp luật.
Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15, có hiệu lực từ ngày 1/7/2025, là một bước chuyển quan trọng trong tiến trình cải cách. Trong đó, nhiều quy định đột phá được đưa ra: Giảm thời gian đóng BHXH tối thiểu để hưởng lương hưu từ 20 năm xuống còn 15 năm, mở ra cơ hội cho người lao động lớn tuổi, làm việc gián đoạn. Luật cũng bổ sung chế độ trợ cấp hằng tháng cho những người không đủ điều kiện nhận lương hưu, phù hợp với thực tế của nhiều nhóm lao động hiện nay.
Bên cạnh đó, chính sách BHXH tự nguyện được điều chỉnh để tăng tính hấp dẫn: có thêm chế độ thai sản, mức hỗ trợ từ ngân sách và địa phương được nâng lên.
![]() |
Trong khi đó, Luật Việc làm sửa đổi cũng tập trung hoàn thiện cơ chế bảo hiểm thất nghiệp. Thay vì chỉ chi trả trợ cấp, bảo hiểm thất nghiệp sẽ trở thành công cụ quản trị thị trường lao động, gắn liền với tái đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp và giữ chân người lao động ở lại thị trường.
![]() |
Chính sách dù tốt đến đâu cũng không thể tự vận hành. Để trở thành điều kiện đủ, cần sự đồng hành chặt chẽ của cả hệ thống chính trị: các bộ, ngành, địa phương và cơ quan BHXH phải cùng thực thi từ trên xuống dưới. Trong đó, việc truyền thông chính sách, nâng cao nhận thức của người lao động về quyền lợi dài hạn là ưu tiên hàng đầu. Khi hiểu rõ những lựa chọn mới, và hệ quả khi rút một lần, người lao động sẽ có quyết định đúng đắn hơn.
Đồng thời, cần đảm bảo các chính sách hỗ trợ duy trì việc làm, giới thiệu việc làm, đào tạo lại thực sự hiệu quả. Vai trò chỉ đạo, giám sát từ cấp ủy, chính quyền địa phương cũng phải được phát huy, để đảm bảo luật không chỉ dừng lại ở nghị trường mà đi vào thực chất, đến đúng đối tượng cần hỗ trợ.
Theo ông Ngô Xuân Liễu, việc nâng cao chế độ cho nhân sự tại các trung tâm dịch vụ việc làm là điều cần thiết để ổn định bộ máy. Đồng thời, ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng hệ thống quản lý việc làm và bảo hiểm thất nghiệp thống nhất từ Trung ương tới địa phương là bước đi tất yếu. Hiện nay, việc hình thành Sàn giao dịch việc làm quốc gia đang được xúc tiến, nhằm kết nối nhanh chóng giữa người lao động và doanh nghiệp, rút ngắn thời gian tìm việc và nâng cao hiệu quả tái hòa nhập thị trường.
![]() |
Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Phan Văn Anh nhấn mạnh: BHXH là trụ cột quan trọng của hệ thống an sinh xã hội. Việc người lao động rút một lần không chỉ khiến họ mất đi quyền lợi thiết yếu khi về già, mà còn ảnh hưởng tới tính bền vững của cả hệ thống.
Thời gian qua, các cấp công đoàn đã đồng loạt triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ người lao động như: giới thiệu việc làm, đào tạo nghề, giám sát thực hiện pháp luật tại doanh nghiệp, thương lượng để giữ việc, bảo đảm thu nhập, triển khai tín dụng tiêu dùng lãi suất thấp, hỗ trợ nhà ở, phúc lợi công đoàn… Công đoàn cũng chủ động tham gia vào quá trình xây dựng, sửa đổi các luật quan trọng như Luật BHXH, Luật Việc làm và đề xuất tăng lương tối thiểu vùng, giảm thời gian làm việc – nhằm tạo điều kiện cho người lao động gắn bó lâu dài với hệ thống.
Bên cạnh chính sách an sinh, việc phát triển thị trường lao động cũng là giải pháp cốt lõi. Phục hồi sức cạnh tranh của doanh nghiệp, nhất là khu vực tư nhân – như tinh thần Nghị quyết số 68/NQ-CP – là điều kiện quan trọng để tạo thêm việc làm bền vững. Nhà nước cần tiếp tục tái cấu trúc hệ thống doanh nghiệp theo hướng hiện đại, tăng năng suất, đổi mới công nghệ và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
![]() |
Chính sách đào tạo kỹ năng và đào tạo lại lực lượng lao động cần được đẩy mạnh để ổn định thị trường và giữ vững sinh kế cho người dân. Mục tiêu lâu dài là phát triển một thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả và bền vững – đúng như tinh thần của Nghị quyết 06/NQ-CP và Nghị quyết 225/NQ-CP năm 2023.
Từ luật pháp đến thực tiễn triển khai, từ bảo hiểm xã hội đến phát triển doanh nghiệp, từ đào tạo nghề đến giới thiệu việc làm – tất cả cần được kết nối thành một hệ thống thống nhất. Chỉ khi mọi yếu tố cùng hội tụ, người lao động mới có thể an tâm lựa chọn ở lại hệ thống, thay vì buộc phải rút lui.
![]() |