Thứ sáu 09/05/2025 14:30
Hotline: 024.355.63.010
Thời cuộc

Phát triển theo chuỗi giá trị liên kết: Hướng đi bền vững cho nông nghiệp Việt Nam

29/08/2024 17:02
Để thúc đẩy tiêu thụ nông sản một cách tốt nhất và nâng cao giá trị cho nông sản Việt thì việc phát triển hiệu quả và bền vững chuỗi giá trị nông sản là vấn đề sống còn trong tái cơ cấu nông nghiệp.
Việc phát triển hiệu quả và bền vững chuỗi giá trị nông sản là vấn đề sống còn trong tái cơ cấu nông nghiệp
Việc phát triển hiệu quả và bền vững chuỗi giá trị nông sản là vấn đề sống còn trong tái cơ cấu nông nghiệp. Ảnh: Internet

Xây dựng sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị là xu thế tất yếu

Sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị hiện nay được coi là hướng đi bền vững giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập cho nông dân và doanh nghiệp. Hình thức này đảm bảo cho các tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị chia sẻ quyền lợi, trách nhiệm với nhau, điều tiết cung cầu thị trường và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Do đó, việc xây dựng sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị hiện nay đang là xu thế tất yếu.

Để thúc đẩy tiêu thụ nông sản một cách tốt nhất và nâng cao giá trị cho nông sản Việt thì việc phát triển hiệu quả và bền vững chuỗi giá trị nông sản là vấn đề sống còn trong tái cơ cấu nông nghiệp. Điều này nhằm đáp ứng cho thị trường quốc tế đang tiếp tục mở rộng cho Việt Nam với gần 20 FTA đã ký kết và đàm phán, cũng như đáp ứng nhu cầu cho thị trường trong nước với quy mô hơn 100 triệu dân.

Ông Nguyễn Như Tiệp - Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và phát triển thị trường.
Ông Nguyễn Như Tiệp - Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và phát triển thị trường.

Chia sẻ với Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập bên lề Diễn đàn "Thúc đẩy hợp tác, liên kết, phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp tại Việt Nam" được tổ chức sáng ngày 29/8, ông Nguyễn Như Tiệp - Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và phát triển thị trường cho biết: "Chuỗi giá trị nông nghiệp Việt Nam gần đây đã có những bước phát triển vượt bậc, xây dựng được hơn 2.500 chuỗi lớn. Có rất nhiều sản phẩm nông sản Việt Nam đã được cải thiện đáng kể về mặt chất lượng để tham gia chuỗi giá trị. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm nay có khả năng tăng so với năm trước, năm ngoái là 53 tỷ USD thì năm nay có thể sẽ từ 55 tỷ USD trở lên".

Chuỗi giá trị đang trong quá trình phát triển, tuy nhiên theo ông Tiệp nhận định, còn một số điểm nghẽn. "Một thực tế đang gặp phải hiện nay trong liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp là vướng mắc giữa người sản xuất với doanh nghiệp. Điều này thì Bộ Nông nghiệp cũng đã nhìn thấy và đang tổ chức các đề án để phát triển vùng nguyên liệu, các sản phẩm nông sản chủ lực như cà phê, gạo, tôm, cá,… Chỉ khi chúng ta phát triển được nguồn nhiên liệu chuẩn, đồng đều về mặt chất lượng thì sẽ xây dựng được nhãn hiệu và phát triển được thành thương hiệu. Chỗ này thì vai trò của doanh nghiệp rất quan trọng", ông Tiệp chia sẻ.

Để nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, ông Tiệp đề xuất cần đổi mới sản xuất nông nghiệp thông qua việc tăng cường hợp tác, liên kết chặt chẽ trong chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ giữa nông dân, hợp tác xã, tổ hợp tác với doanh nghiệp. Theo ông, doanh nghiệp phải liên kết sâu từ khi người nông dân trồng, chăn nuôi và hỗ trợ kỹ thuật cho người ta, cùng giám sát với người ta thì đương nhiên sẽ bền vững hơn rất nhiều, bền vững không chỉ là tác động kinh tế mà còn bền vững về cả mặt kỹ thuật, đảm bảo năng suất chất lượng và hiệu quả trong liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp.

Ông Tiệp cũng thông tin thêm, hiện có rất nhiều chủ doanh nghiệp trẻ đầu tư vào nông nghiệp, họ tổ chức sản xuất tốt, đưa ra các sản phẩm chất lượng, có thể thu thập đóng gói ngay tại trang trại và bán hàng qua thương mại điện tử. Thông thường, chuỗi truyền thống là phải qua chế biến, qua bán buôn bán lẻ nhưng đến giờ đã có những chuỗi ngắn hơn, từ trang trại sản xuất đã có thể bán thẳng cho người tiêu dùng. Ở đó người ta sản xuất, thu hoạch, đóng gói và giao hàng thẳng đến người tiêu dùng. Điều này giúp người nông dân không chỉ sản xuất mà gắn kết trực tiếp với thị trường, xu hướng này sẽ phát triển hơn nữa trong thời gian tới.

Quy mô hoạt động tài trợ chuỗi cung ứng tại Việt Nam còn hạn chế

Cũng tại Diễn đàn, TS. Cấn Văn Lực - thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính - tiền tệ Quốc gia đã chia sẻ bức tranh tổng quát về thực trạng tài trợ chuỗi cung ứng nông sản Việt Nam.

Theo ông Lực, quy mô hoạt động tài trợ chuỗi cung ứng tại Việt Nam còn rất nhỏ trong khi kim ngạch xuất nhập khẩu tăng khá (khoảng 10%/năm giai đoạn 2013-2023). Năm 2023, các ngân hàng thương mại chỉ tài trợ thương mại cho 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu; trong đó, tài trợ chuỗi cung ứng chỉ chiếm 2%. Ngoài ra, các đơn vị cung cấp chủ yếu vẫn là các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính chưa tham gia nhiều.

Sản phẩm tài trợ chuỗi cung ứng (SCF) có nhiều rào cản đối với người nông dân khi tiếp cận. Đó là các ngân hàng thương mại thường yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, trong khi các sản phẩm tài trợ thương mại gồm tài trợ cho các khoản phải thu, tài trợ hóa đơn, tài trợ lô hàng… còn ít được áp dụng do tính chất rủi ro.

Ảnh minh họa
TS. Cấn Văn Lực - thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính - tiền tệ Quốc gia chia sẻ tại Diễn đàn.

Nhằm khắc phục những vướng mắc trên, ông Lực đề xuất một số giải pháp đối với cơ quan quản lý:

Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý, đẩy nhanh tiến độ xây dựng hành lang pháp lý cho các mô hình kinh doanh mới (cơ chế sanbox cho Fintech, cho vay ngang hàng, cơ chế chia sẻ dữ liệu...v.v).

Thứ hai, tổng kết đánh giá và có phương án tiếp theo đối với bảo hiểm nông nghiệp.

Thứ ba, tiếp tục phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp.

Thứ tư, hoàn thiện hệ thống thông tin, dữ liệu dự báo về thị trường, giá cả nông sản nhằm giúp nông dân và doanh nghiệp có định hướng sản xuất, tiêu thụ ổn định.

Thứ năm, cần có chiến lược tiếp thị và mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, tập trung xây dựng thương hiệu, tận dụng FTA thế hệ mới; quyết tâm tháo gỡ thẻ vàng EU.

Cuối cùng, UBND các tỉnh, TP đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và quyền sở hữu tài sản trên đất (đặc biệt là tài sản như nhà kính, nhà lưới, ao nuôi...).

Về phía các DN nông nghiệp, ông Lực cũng đề xuất doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu về các giải pháp tài trợ chuỗi cung ứng và các lợi ích; tăng cường minh bạch hóa thông tin để có thể tiếp cận các sản phẩm SCF nói riêng và dịch vụ tài chính nói chung; chủ động nghiên cứu để chuyển hướng sang nông nghiệp xanh, phát triển bền vững để có thể tiếp cận nguồn vốn trong và ngoài nước cho lĩnh vực này.

Vai trò các hợp tác xã trong quá trình sản xuất nông nghiệp

Có thể nói, trong hợp tác, liên kết, phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp tại Việt Nam, vai trò của hợp tác xã là không thể phủ nhận. Các hợp tác xã (HTX) có vai trò cầu nối giữa nông dân và doanh nghiệp để liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, nâng cao thu nhập cho thành viên.

Hiện nay cả nước đang có trên 4.000 hợp tác xã tham gia liên kết theo chuỗi giá trị (chiếm gần 13% tổng số hợp tác xã) với các hình thức liên kết chuỗi giá trị phát triển đa dạng theo các công đoạn trong chuỗi giá trị nông sản.

Hiện nay cả nước đang có trên 4.000 hợp tác xã tham gia liên kết theo chuỗi giá trị (chiếm gần 13% tổng số hợp tác xã)
Hiện nay cả nước đang có trên 4.000 hợp tác xã tham gia liên kết theo chuỗi giá trị (chiếm gần 13% tổng số hợp tác xã).

Tại diễn đàn, ông Ngô Sỹ Đạt - Giám đốc Viện Nghiên cứu thị trường và thể chế nông nghiệp, cũng đã đề cao vai trò các hợp tác xã trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Hợp tác xã có thế mạnh là có mạng lưới rộng khắp cả nước, tạo ra sản phẩm nông sản có giá trị, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Hợp tác xã là đầu mối tiếp nhận chuyển giao khoa học kỹ thuật, chính sách của Nhà nước và các nguồn khuyến nông, công trình hạ tầng phục vụ sản xuất kinh doanh, bảo hiểm cho nông dân, hỗ trợ vùng khó khăn, miền núi, dân tộc thiểu số.

Ông Đạt cũng thông tin thêm, hiện có 2.169 hợp tác xã nông nghiệp làm chủ thể sản phẩm OCOP; hơn 1.000 hợp tác xã nông nghiệp có hoạt động du lịch cộng đồng, tạo việc công ăn việc làm và thu nhập cho các thành viên (thu nhập trung bình 52 triệu đồng/năm), góp phần ổn định chính trị - xã hội địa phương . Ngoài ra, đến nay có gần 10% hợp tác xã nông nghiệp có phụ nữ tham gia hội đồng quản trị, giám đốc hợp tác xã.

Đề cập đến giải pháp thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp, ông Sỹ Đạt đề xuất, Nhà nước cần quan tâm hơn nữa đến việc đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã, tiếp tục hỗ trợ chương trình khởi nghiệp hợp tác xã; tiếp cận vay vốn tín dụng, đất đai... Đặc biệt là nhân rộng mô hình hợp tác xã vừa sản xuất vừa tham gia thị trường (sàn giao dịch nông sản); hợp tác xã đánh bắt thủy sản trên biển; bảo vệ nguồn lợi cộng đồng...; hợp tác xã sản xuất sản phẩm OCOP gắn với du lịch nông thôn.

Bảo Bảo

Tin bài khác
Thông tin về vay vốn ODA và tổng trả nợ của Chính phủ trong 4 tháng

Thông tin về vay vốn ODA và tổng trả nợ của Chính phủ trong 4 tháng

Bộ Tài chính vừa thông tin về tình hình tổng trả nợ của Chính phủ trong tháng 4 và việc ký kết thoả thuận vay vốn ODA ưu đãi từ nước ngoài.
Bắt đầu thu phí 5 tuyến cao tốc Nhà nước đầu tư từ cuối năm 2025

Bắt đầu thu phí 5 tuyến cao tốc Nhà nước đầu tư từ cuối năm 2025

Có 5 tuyến cao tốc lớn do Nhà nước đầu tư sẽ thu phí từ cuối năm 2025, đánh dấu bước chuyển mới trong quản lý hạ tầng giao thông đường bộ.
GS.TS Đinh Văn Hiến: Doanh nhân Việt hun đúc niềm tin và khát vọng vào Nghị quyết số 68

GS.TS Đinh Văn Hiến: Doanh nhân Việt hun đúc niềm tin và khát vọng vào Nghị quyết số 68

Nghị quyết số 68-NQ/TW đã nêu rõ xoá bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về kinh tế tư nhân Việt Nam; tôn trọng doanh nghiệp, doanh nhân, xác định doanh nhân là người chiến sĩ trên mặt trận kinh tế.
Quốc hội thảo luận về dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi): Kiến nghị hỗ trợ kinh tế tư nhân

Quốc hội thảo luận về dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi): Kiến nghị hỗ trợ kinh tế tư nhân

Đại biểu Trần Văn Khải (Đoàn Hà Nam) đề nghị dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) cần tiếp tục rà soát, bổ sung để bảo đảm thể chế hóa đầy đủ các định hướng lớn, nhất là ưu tiên phát triển kinh tế tư nhân như một động lực chính trong tạo việc làm bền vững.
Bàn giải pháp đột phá tăng trưởng kinh tế hai con số trong kỷ nguyên mới

Bàn giải pháp đột phá tăng trưởng kinh tế hai con số trong kỷ nguyên mới

Hội thảo "Giải pháp đột phá tăng trưởng kinh tế hai con số trong kỷ nguyên mới" thảo luận chuyên sâu xoay quanh các trụ cột chính tạo đột phá tăng trưởng.
Nghị quyết số 68-NQ/TW: Bệ phóng chiến lược cho kinh tế tư nhân bứt phá

Nghị quyết số 68-NQ/TW: Bệ phóng chiến lược cho kinh tế tư nhân bứt phá

Điểm nổi bật và mang tính đột phá của Nghị quyết số 68-NQ/TW là việc lần đầu tiên Bộ Chính trị xác định kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân – thay vì chỉ “một trong những động lực” như trước đây.
TS. Tô Hoài Nam: Nghị quyết số 68-NQ/TW thắp lửa niềm tin cho doanh nghiệp tư nhân Việt Nam

TS. Tô Hoài Nam: Nghị quyết số 68-NQ/TW thắp lửa niềm tin cho doanh nghiệp tư nhân Việt Nam

Không còn là “một trong những động lực” hay “một động lực quan trọng” như các văn kiện trước, Nghị quyết số 68-NQ/TW đã xác định kinh tế tư nhân là “động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế.
Đề xuất Thủ tướng Chính phủ được quyết định chủ trương đầu tư nhà máy điện hạt nhân

Đề xuất Thủ tướng Chính phủ được quyết định chủ trương đầu tư nhà máy điện hạt nhân

Dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) đề xuất trao thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư dự án nhà máy điện hạt nhân cho Thủ tướng Chính phủ, thay vì Quốc hội như hiện hành.
Kinh tế tư nhân cần được “đối xử” thỏa đáng

Kinh tế tư nhân cần được “đối xử” thỏa đáng

Kinh tế tư nhân Việt Nam có giá trị nhân văn cao cả song để phát triển được cần có lực lượng đông đảo, chất lượng tốt nhất, và phải được "đối xử" thỏa đáng.
Nghị quyết số 68-NQ/TW: Sẽ có cơ chế, chính sách đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa

Nghị quyết số 68-NQ/TW: Sẽ có cơ chế, chính sách đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa

Tại Nghị quyết số 68-NQ/TW về Phát triển kinh tế tư nhân, Bộ Chính trị đã đặt ra nhiệm vụ về cơ chế, chính sách đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thủ tướng Chính phủ: 11 nhiệm vụ giải pháp trọng tâm trong năm 2025

Thủ tướng Chính phủ: 11 nhiệm vụ giải pháp trọng tâm trong năm 2025

Tại ngày làm việc đầu tiên của Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đề ra 11 nhiệm vụ giải pháp trọng tâm hướng tới các mục tiêu quan trọng trong năm 2025.
Năm 2025 mục tiêu quy mô kinh tế trên 500 tỷ USD

Năm 2025 mục tiêu quy mô kinh tế trên 500 tỷ USD

Đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8%, với quy mô nền kinh tế trên 500 tỷ USD, do vậy Chính phủ triển khai các giải pháp đồng bộ về thể chế, hạ tầng và cải cách hành chính để đạt được mục tiêu này.
Thủ tướng yêu cầu cắt giảm mạnh thủ tục hành chính và điều kiện kinh doanh

Thủ tướng yêu cầu cắt giảm mạnh thủ tục hành chính và điều kiện kinh doanh

Ngày 4/5/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Công điện số 56/CĐ-TTg yêu cầu các bộ, ngành, địa phương khẩn trương thực hiện cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính theo Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 26/3/2025 của Chính phủ.
Nghị quyết số 68-NQ/TW: Nghiêm cấm nhũng nhiễu, thông tin sai lệch ảnh hưởng doanh nghiệp, doanh nhân

Nghị quyết số 68-NQ/TW: Nghiêm cấm nhũng nhiễu, thông tin sai lệch ảnh hưởng doanh nghiệp, doanh nhân

Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã nêu rõ: Nghiêm cấm các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, đưa thông tin sai lệch, không chính xác, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân.
Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân: Mục tiêu có 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030

Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân: Mục tiêu có 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030

Tổng bí thư Tô Lâm vừa thay mặt Bộ Chính trị ký Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về Phát triển kinh tế tư nhân với nhiều tư tưởng đột phá.